Chữ nghĩa làng văn
“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.
***
Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt
Sai lầm vì không phân biệt tiếng đồng âm
Tiết hạnh khả phong: phong có nghĩa là “noi theo bắt chước”
Phong vốn có nghĩa là gió. Tiết hạnh khả phong y; nói “tiết hạnh của người phụ nữ đáng để làm gương cho mọi người noi theo”.
Phong ở đây không phải là phong thưởng như vua phong “Tiết hạnh khả phong” cho một quả phụ nào đó.
(Lưu Khôn)
Địa danh
Khu vực bến Bạch Ðằng ở quận Nhất Sài Gòn, nơi đặt trụ sở Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Hội Trường Diên Hồng nơi họp Thượng Viện của VNCH, ngày xưa thuộc làng Láng Thọ.
Khi xuất hiện trên sách báo tiếng Pháp vì in ấn không có dấu, Láng Thọ trở thành Lang Tho. Rồi vì chữ H câm, nên Lang Tho thành Lang To, và được đọc theo âm tiếng Pháp là "Lăng Tô"
(Thiếu Khanh)
Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt
Danh từ làng của ta và t'làng của Mã Lai là một trong những khoen trung gian. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày khía cạnh ngôn ngữ mà thôi, nhưng còn không biết bao nhiêu cái khoen trung gian lối đó, nó làm cho phái nhận tổ tiên ta là Lạc Việt phải soát lại quan niệm của mình vì nhận càn, không đưa được chứng tích, không tìm tòi theo sự đòi hỏi của phương pháp khoa học.
(Bình Nguyên Lộc)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Nhận được thư em lúc nhá nhem
Mừng mừng tủi tủi mở ra xem
Trong thư em viết dăm ba chữ
“Anh ơi ngày mai nó lấy em”
Hồi ký “Một cơn gió bụi”
Một cơn gió bụi trang 75 bản Vĩnh Sơn 1969 có đoạn "Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người sau này có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Vể sau người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản", đoạn này đã bị cắt ở bản của Phương Nam in 2017 (trang 80), nhà báo Huy Đức dẫn trên mạng xã hội.
Cùng lúc, nhà báo Huy Đức cũng có góp đôi lời (nhỏ nhẹ) về sự kiện này: Lý do chính để Cục xuất bản ra lệnh thu hồi Một cơn gió bụi của học giả Trần Trọng Kim là vì “cuốn sách có nhiều chi tiết, không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng”.
Sự thật lịch sử là một khối đa diện, không ai có thể tiếp cận hết mọi tiết diện. Nếu sách có những chi tiết “không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng” thì hãy để các nhà sử học khác kiểm chứng, chỉ ra cái sai. Điều quan trọng là những gì cụ Trần Trọng Kim viết trong Một cơn gió bụi đã phải là sự thật hay chưa. Nếu đã là sự thật thì nó luôn phù hợp ở mọi thời đại, chế độ nào thấy một sự thật không phù hợp với mình thì chế độ đó…không phù hợp với thời đại nào của loài người cả.
So với cái tâm, và cái tầm, của nhà xuất bản thì chuyện “cắt xén” vụn vặt kể trên không có chi đáng để phàn nàn; bởi ngoài hai ấn bản thượng dẫn, còn có bản in năm 2015 – do tuần báo Sống phát hành từ California và hàng chục trang mạng với đường dẫn đến nguyên bản của tác phẩm này. Bức màn sắt đã rớt xuống từ lâu. Đâu có chuyện chi mà dấu được hoài bên trong đó nữa!
Và nhà báo Huy Đức kết luận:
Lịch sử không có chữ “Nếu”. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là “Chính phủ Trần Trọng Kim”…
(Dương Cầm)
Một số chi tiết liên quan tới Thạch Lam- Nguyễn Tuân
Sau lần ra mắt đó, mãi tới khoảng 1985 ở Hà Nội, Thạch Lam mới được in lại, và bài viết của Nguyễn Tuân về ông được đưa vào hầu hết các tài liệu nghiên cứu.
Nên biết thêm là tuy không được in, nhưng tác phẩm Thạch Lam vẫn được bạn đọc thủ đô những năm đó tìm đọc. Hồi đó chưa có photocopy, nên câu chuyện một bạn trẻ nào đó ngồi chép lại cả truyện Dưới bóng hoàng lan chắc là chuyện có thật, bản thân tôi trong năm cuối học Đại học Sư phạm Hà Nội cũng đã ngồi chép Cô hàng xén trên mấy trang giấy xấu chỉ có ở Hà Nội trước chiến tranh để đọc đi đọc lại.
Vì sao ư, vì tôi nhìn thấy trong nhân vật Tâm bóng dáng người chị thân yêu của mình. Khác với Nhất Linh Khái Hưng..., Thạch Lam vẫn được các cuốn lịch sử văn học coi như một tác giả đáng mến mộ nhất của sinh hoạt văn học 1930-45.
Theo chỗ tôi nhớ, hầu như chưa bao giờ Thạch Lam trở thành đối tượng để các nhà nghiên cứu phê phán trong khi họ đua nhau hạ xuống đất đen Tự lực văn đoàn.
Nguyễn Tuân vốn được ngưỡng mộ sau những bài viết rất nhanh ngay sau cái chết của Tản Đà và Vũ Trọng Phụng; mấy năm trước khi qua đời, chính ông có lần nói với tôi là về già không sao có nổi cái bút lực như lúc trẻ viết về hai tác giả trên.
Bài viết về Thạch Lam không có được cái xuất thần như thế. Nhưng nó vẫn được nhắc nhở vừa để cho thấy cái thuỷ chung như nhất của Nguyễn Tuân, vừa là một bằng chứng khẳng định tài năng bền vững với thời gian của Thạch Lam.
(Nguyễn Tường Giang)
Bùi Giáng vẽ tranh
Tôi liền liên lạc với Phạm Mạnh Hiên, nghe anh kể:
- Hồi 1973, tại Sài Gòn, sau khi thực hiện tạp chí Văn số chuyên đề Bùi Giáng, mình mới gặp thường xuyên trung niên thi sĩ. Hôm nọ, Bùi Giáng đưa mình xuống Thủ Đức thăm nhà bào đệ Bùi Văn Ký. Ổng lấy tặng mình cả bộ tranh gồm 7 - 8 bức. Sau, thấy bạn bè thích, mình có cho mấy bức. Như cho Đặng Tấn Tới và Nguyễn An Đình ngoài Bình Định. Bức tranh mà Đình giữ thì nay đã hỏng, vì nhà bị bão. Bức Tới giữ vẫn còn nguyên. Một bức, mình cho họa sĩ Đinh Cường hiện định cư bên Hoa Kỳ. Một số bức khác, thú thật là do hoàn cảnh khó khăn, mình đem bán, chỉ giữ 2 bức là Chị lùa bò vào Hy Lạp mù sương và Không đề. Cuối cùng, mình cũng chẳng giữ nổi 2 bức đó, vì... túng. Mình đành nhượng cho gallery Tự Do với giá mỗi bức 200 USD.
Theo tìm hiểu của riêng tôi, vẫn còn một tranh màu khác do Bùi Giáng vẽ đang nằm trong bộ sưu tập của Cao Hải - một doanh nhân kiêm nhà chơi tranh hiện trú tại Sài Gòn.
Năm 1973, trong cuốn Tác giả tác phẩm xuất bản tại Sài Gòn, Trần Tuấn Kiệt nhắc đôi câu khi đề cập Bùi thi sĩ: "Bùi Giáng cũng có vẽ rất nhiều tranh, nhưng ông dẹp đi đâu mất cả, không nói đến nữa. Những bức tranh đó, hoạ sĩ Nghiêu Đề bảo là rất đẹp." Một hoạ sĩ chuyên nghiệp như Nghiêu Đề khen ngợi tranh của Bùi Giáng như thế, song Bùi thi sĩ vẫn cứ là... thi sĩ họ Bùi.
Hoạ sĩ Đinh Cường tỏ rõ lòng "kết" tranh do Bùi Giáng lẫn Trịnh Công Sơn vẽ. Trong bộ sưu tập của hoạ sĩ chuyên nghiệp họ Đinh, hiện có tranh của hai nhân vật này.
Bùi Giáng đẹp giai
Tranh Trịnh Công Sơn vẽ
màu nước và phấn tiên:
(Phanxipăng)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ta cứ ngỡ đùa vui trong chốc lát
Ai có ngờ đùa mãi đến điêu linh
(Bùi Giáng)
Hồi ký viết sớm
Đà Lạt là một thành phố xa lạ. Tôi sống xa gia đình từ nhỏ, sẵn sàng thích ứng với mọi hoàn cảnh. Nhưng Đà Lạt là một thành phố đẹp quá. Tôi choáng váng trước vẻ đẹp của sương mù và nỗi cô đơn. Khi rời Sài Gòn ra đi tôi chỉ mang theo một bàn chải đánh răng, một cuốn sách, một cái áo len dày và một bộ quần áo để thay. Đêm đầu tiên, trong căn phòng ký túc xá rộng tôi thấy mình bơ vơ, trơ trọi, lạnh thấu xương.
Bài thơ đầu tiên tôi viết là một bài lục bát lấy tên là "Mang mang":
Hoang vu chín đến độ thèm
Lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
Tôi gửi bài thơ về Sài Gòn cho tạp chí Hiện Đại. Và may mắn sao được Nguyên Sa chọn đăng. Bài thơ viết đã lâu, tưởng đã quên. Thế mà ngạc nhiên làm sao, khi đến Mỹ, nhà văn Bùi Bảo Trúc là người đầu tiên (và có lẽ là người duy nhất) cười cười đọc cho tôi nghe bài thơ đó và đố tôi tác giả là ai?
Sau bài "Mang mang", tôi viết "Mù sương", truyện ngắn đầu tay, đăng trên tạp chí Văn Học do Dương Kiền và Phan Kim Thịnh chủ trương. Tại sao tôi làm thơ? Tôi không tìm thấy câu trả lời. Tôi đã viết như thế nào? Tôi cũng không rõ.
(Hồi ký viết sớm - Nguyễn Xuân Hoàng)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đi trong cõi mộng ta đừng mộng
Đứng giữa đất trời chẳng ngóng trông
Ngồi đây soi bóng mình qua lại
Nằm ngủ mơ màng nhớ tánh không
Chữ nghĩa làng văn
Phạm Thị Hoài
Trần Vũ: Tiểu thuyết Marie Sến đã bị khá đông “đồng môn cũ” của Hội Nhà văn khiển trách là đã viết bằng đôi mắt của Việt kiều thiếu thông cảm. Hoài trả lời những tấn công này, thế nào?
Phạm Thị Hoài: Tôi đã rất thích thú chép và ghép nguyên xi ý kiến của một số nhà phê bình thành một “Chân dung Phạm Thị Hoài”. Mời bạn thưởng thức một đoạn:
“Qua mỗi trang viết của những tác phẩm sau này như Man Nương, Marie Sến, gần đây nhất là Ám Thị, Phạm Thị Hoài càng đưa người đọc đến sự chán ghét văn chương hiện đại, xô người đọc vào vũng lầy bế tắc của xã hội bằng một thứ ngôn ngữ kinh tởm khó chịu. Vì sao họ lại phải đọc những tác phẩm sa đọa, thô lỗ, sống sượng như vậy? Con người dưới mắt Phạm Thị Hoài là một loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ.
Sở trường của Phạm Thị Hoài là dựng nên một thế giới bỉ ổi, đểu cáng và hèn hạ, nhằm khinh rẻ, tởm lợm con người, sỉ nhục và thô bỉ hoá giấc mơ của con người. Ả hoàn toàn đánh mất khả năng khám phá ra cái tốt đẹp của thế giới, nghĩa là đánh mất thuộc tính quan trọng nhất của văn học, vậy mà ả còn cả gan bày tỏ thái độ bỡn cợt, nhạo báng nền văn học của chúng ta. Bị ám ảnh bởi văn hoá giường chiếu, hành hạ bởi những ẩn ức tình dục của cuộc sống ăn chơi trụy lạc trước đây và phận làm dâu văn hoá đầy mặc cảm dồn nén sau này, lại chịu ảnh hưởng không tiêu hoá kỹ của phương Tây như phân tâm học, và bắt chước một số nhà văn Nhật Bản (Phạm Thị Hoài từng lợi dụng danh tiếng để dịch cuốn tiểu thuyết Nhật cực kỳ vô luân và thối nát nhan đề Chiếc Chìa Khoá, khiến nhà xuất bản phải khốn đốn.).
Ả không có cách nào khác là thực hành một lối văn khiêu dâm nhớp nhúa, lập hội quán libido, núp dưới tên tuổi của Sartre và Camus, Kafka và García Márquez, Proust và Joyce để triết lý ba lăng nhăng dung tục nhằm câu khách rẻ tiền, đua đòi bắt chước những phương pháp sáng tác chợ chiều như Chủ nghĩa Phi lý, Tiểu thuyết Mới và Dã thú Mạt kỳ, tiếp tục thói làm dáng trí thức bằng khả năng nổi loạn dung tục.”
Tôi thật sự không thể viết hay hơn.
(Trần Vũ thực hiện)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không
Những tác phẩm trong…sọt rác
Có một tâm sự mà nhà văn Ngọc Giao giữ mãi trong lòng hơn nửa thế kỷ. Đó chính là hoàn cảnh ra đời của bài thơ Hai sắc hoa ti gôn. Ông kể rằng vào một buổi trưa, cuối mùa thu năm 1937, ở toà soạn báo Tiểu thuyết Thứ bảy, khi những đồng nghiệp trong toà soạn đã về nghỉ gần hết, chỉ còn lại Trúc Khê, Ngô Văn Triện và ông. Trúc Khê Ngô Văn Triện còn nán lại để dịch Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ra quốc ngữ. Còn ông thì đã tiến đến chỗ mắc áo để lấy mũ và ra về.
Nhưng đúng lúc đó có tiếng kèn đám ma.
Đám tang đang đi qua phố Hàng Bông, ông là người rất sợ nghe tiếng kèn đám ma, nên ông mới nán lại thêm cho xe tang đi qua đã. Đã khoác áo, đội mũ chỉnh chu, ông không muốn quay vào phòng trong mà kéo ghế ngồi tạm lại chỗ gần cửa, gần nơi để cái sọt rác. Không biết điều gì xui khiến, ông đưa tay vào sọt rác, nhặt lên mấy tờ bị vo trò. Tẩn mẩn, ông vuốt một tờ ra và đọc.
(Hồi ức của nhà văn Ngọc Giao về bài thơ Hai sắc hoa ti gôn)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ
Thong dong tự tại vậy mà vui
Cái mới trong văn
Có người bạn văn, chủ biên một trang mạng văn chương, một hôm kêu gọi tôi đóng góp vào số chủ đề anh đang thực hiện. Chủ đề tình yêu. Anh nói tôi có toàn quyền làm chủ ngòi bút mình, viết gì cũng được – “bạo liệt” càng tốt – miễn sao có nghệ thuật và tương đối mới mẻ một chút. Tôi ậm ừ trả lời anh, chẳng nhận lời mà cũng không từ chối. Tôi hiểu ý anh nhưng đột nhiên tôi cắc cớ tự đặt ra câu hỏi trong đầu với chính mình:
Có gì mới lạ nơi tình yêu không?
Thật ra, làm gì có cái mới lạ dưới ánh mặt trời này. Thánh Kinh phán vậy. Và, quả tình, tôi chẳng biết có cách nào dùng văn chương để “làm mới” tình yêu. Đừng bảo tôi cực đoan nếu – nhìn từ góc độ nào đó – tôi bảo tất cả những bài thơ tình đông tây kim cổ chẳng qua chỉ là biến tấu từ mẫu đề
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Do một thi nhân nào đó sống cách đây hai ba nghìn năm ở lưu vực sông Hoàng Hà, trong giây phút ngẩn ngơ nhìn người con gái đẹp giặt lụa ven sông, lòng bỗng tràn ngập nỗi cảm xúc yêu thương, viết xuống. Tình yêu, chính nó, chắc không có gì mới lạ. Cảm xúc con người hai ba nghìn năm qua chẳng đổi khác bao nhiêu. Hai ba nghìn năm còn phù du, ngắn ngủi hơn một sát na trong biến trình tiến hóa của con người, giữa người và người.
(Trịnh Y Thư)
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1
Có “nước” Xích Quỷ không? - Không.
Bởi vì Xích Quỷ: chỉ là địa bàn lớn chứa chủng Việt, gồm hàng trăm bộ lạc/thị tộc, tình trạng “văn minh” tuỳ vùng.
Nước Sở: nhỏ hơn, chứa các nhóm Âu-Lạc.
Đồng bằng sông Hồng: nhỏ hơn nữa, là một trong những nơi dừng chân cuối cùng của của đám Âu/Lạc di tản.
Nước Thái Lan, nước Lào, chi Âu, tình cảnh rất giống Việt Nam. Thái chỉ mới thành lập quốc gia từ thế kỷ 13. Lào lập nước trễ hơn Thái chừng nửa thế kỷ. Cả hai chạy ngược chạy xuôi tìm đất và choảng nhau với dân bản địa. Có những bộ tộc rất oai hùng, ví dụ sắc tộc Karen, sắc tộc H’Mong, và hàng ngàn bộ tộc hiện diện trên đất Trung Hoa, bị Hán hoá hoặc có danh nghĩa “khu tự trị”.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Bài thơ Con Cóc qua nhận định
nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc
Mặc Lâm: Anh vừa cho là cách cảm thụ và phê bình một bài thơ qua sự diễn dịch của nhà phê bình hay người thưởng ngoạn làm tôi liên tưởng đến sự thưởng ngoạn một bức tranh trừu tượng vậy, người xem hoàn toàn có quyền suy tưởng theo cảm nhận của mình hay nói một cách khác là có thể sáng tác lại một lần nữa bên cạnh tác giả.
Tuy nhiên trong lĩnh vực văn học tính chất diễn dịch này có làm sai lệch đi những mấu chốt chính của tác giả hay không?
Nguyễn Hưng Quốc: Đó là điều mà các nhà nghiên cứu lý luận vẫn thường đặt ra. Người ta đặt ra những câu hỏi như: Ý tưởng của bài thơ có phải là ý tưởng của tác giả hay không? thì hầu như cho đến bây giờ thì mọi nhà lý thuyết văn học đều nghi ngờ cái nhận định ấy.
(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2
“Con Rồng cháu Tiên”
Xin thú thật, là một học trò yêu môn lịch sử, nghe “con rồng cháu tiên, dân Việt mình… siêu hơn dân tộc khác” rất êm tai. Nhưng hôm nay ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp.
Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam; và sau gần 3000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hoà huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập… mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quí giá tổ tiên để lại.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Tiểu sử
Quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ cư tại California
Tác phẩm
Bao giờ cho quên, Gửi về em, mùa thu Hà Nội,
Ba sinh hương lửa
Tản mạn về tiếng Việt
Cái
Cái gì tĩnh, hay ít động hơn thì gọi là cái như cái ly, cái cốc, cái chén, cái bát, cái bàn, cái ghế, cái tủ, cái giường, cái nhà... và cái giếng, cái ao, cái hồ, cái (hĩm)... của phụ nữ. (Xin chú ý theo nguyên tắc hễ động (dương), thì dùng mạo từ con, còn cái gì tĩnh (hay tương đối ít động hơn) thuộc âm, thì dùng mạo từ cái, như cái giếng, cái ao, cái hồ.... và cái nhà.
Luật trừ: có một thứ không sinh động nhưng cũng gọi là con như con dao. Nhưng lại cái kéo. Cứ nhìn con dao và cái kéo trong lúc chúng được dùng vào việc thì thấy rõ ràng cái kéo linh hoạt hơn con dao. Nên đáng lý phải gọi con kéo và cái dao thì mới đúng luật âm (tĩnh) dương (động) chứ.
Nhưng ngôn ngữ Việt là vậy. Do đó trường hợp này phải coi như luật (mẹo) trừ. Và, con đường có phải cũng là luật trừ không? Hay vì đường cũng thường được gọi là đường đi, mà trong chữ đi thì có hàm ý di chuyển, chuyển động.
(Minh Võ)
Ai là người dịch Chinh phụ ngâm
Chinh Phụ ngâm bị lục
Giữa thế kỉ XIX, trong tập bài giảng ở trường Thông ngôn, bản Chinh Phụ ngâm diễn âm củaTrương Vĩnh Ký đã ghi tác giả là Đoàn Thị Điểm. Cũng trong chiều hướng trên, khoảng vài mươi năm sau, đời vua Thành Thái, Vũ Hoạt đã đem mấy quyển thơ nôm cho khắc in tập “Danh gia quốc âm”, (1) trong đó có Chinh Phụ ngâm bị lục với lời tựa có câu: “Đặng tiên sinh sở tác, Đoàn phu nhân diễn âm” (Đặng tiên sinh làm sách ấy, Đoàn phu nhân dịch ra chữ Nôm).
Bản chép tay cuốn Chinh Phụ ngâm bị lục (1)
lưu trữ tại Thư viện Đại học Yale, Hoa Kỳ.
Thành Thái, Nhâm Dần cúc nhật. Long Hòa tàng bản. Thanh Trì Nhân Mục, Đặng Trần tiên sinh Côn trước. Văn Giang Trung phú, Đoàn phu nhân Điểm diễn âm. Thần Khê Đồng Phong thừa thư.
Nghĩa: Ngày mùa thu, năm Thành Thái Nhâm dần. Bản hiệu Long Hòa. Đặng Trần Côn tiên sinh ở Thanh Trì, Nhân Mục soạn. Đoàn Thị Điểm phu nhân ở Văn Giang, Trung Phú dịch nôm. Thần Khê Đồng Phong chép lại.
(Đây là bản của Maurice Durand chép lại phần chữ Nôm Chinh Phụ ngâm rồi chua thêm quốc ngữ bản do Vũ Hoạt đặt Long Hòa hiệu in vào đời Thành Thái năm 1902)
Bản in của Phúc Văn Đường năm 1922
(sao lại bản của Vũ Hoạt đời Thành Thái)
Nhâm tuất niên tân san
Chinh Phụ ngâm bị lục
Phúc Văn đường tân bản
Thanh Trì Nhân Mục Đặng Trần tiên sinh Côn trước
Văn Giang Trung Phú Đoàn phu nhân Điểm diễn âm (2)
Thần Khê Đồng Phong thừa thư.
(Thư viện Quốc gia. Bản chụp củanomfoundation)
(Nguyễn Cẩm Xuyên)
(1) “Danh gia quốc âm” gồm ba tác phẩm:
Chinh Phụ ngâm bị lục , Phan Trần và Cung Oán Ngâm.
Chinh Phụ ngâm bị lục được in ở 34 tờ đầu, mỗi trang được chia 3 phần:Trên là phần dẫn giải, chép lại một số bài thơ chữ Hán xưa; giữa là phần Hán văn của Đặng Trần Côn, dưới là phần dịch nôm. Trong lời tựa, Vũ Hoạt có viết: “Đặng tiên sinh sở tác, Đoàn phu nhân diễn âm”.
(2) Các bản Nôm xuất hiện đầu thế kỷ 20 về sau đều ghi tên người dịch Nôm là Đòan Thị Điểm khác với các bản cổ.
Tiểu thuyết lịch sử
Như trên kia tôi đã nói: Viết về Thi Sách (1), Bà Trưng như thế thì thật là quá bậy bạ. Một tác giả khác, cũng hơi lơn lớn viết về Hồ Quý Ly bằng giọng hiện đại thì đọc sao vô.
Một tác giả khác (được nhiều người suy tôn là tác giả lớn) viết về Lê Lợi - Nguyễn Trãi như là “các đồng chí thân thiết” làm ta ngỡ ngàng xiết bao!
Tôi xin thưa rằng:
Xin đừng viết chuyện lông rùa sừng thỏ như thế.
(Chân Diện Muc)
(1) Tác giả viết: Thi Sách họp “các đồng chí” lại tuyên bố: Thời cơ đã chín mùi để nổi dậy... Thi Sách thất bại... Bà Trưng khởi nghĩa thành công!
Sự tích phủ Tây Hồ
Phía đông của hồ Tây có một doi đất ăn lạn ra hồ như một bán đảo, đó là làng Tây Hồ, một làng cổ của kinh thành Thăng Long.
Ở đầu làng sát ngay mép nước có một ngôi đền thờ bà Liễu Hạnh, một nhân vật có thật sống vào thế kỷ XVII nhưng được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu đứng đầu thần điện của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Những nơi thờ mẫu gọi là đền, nhưng đặc biệt những nơi có liên quan mật thiết đến mẫu Liễu Hạnh (nơi sinh, nơi hiển thánh) thì gọi là phủ.
Phủ Tây Hồ được dựng theo một truyền thuyết.
Vào khoảng đầu thế kỷ XVII, ông Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613) trong một buổi cùng hai người bạn là cử nhân họ Lý và tú tài họ Ngô chơi hồ Tây bỗng gặp một cô gái xinh đẹp. Họ trò chuyện với nhau và cùng nhau làm thơ. Đến khi Trạng Bùng hỏi tên tuổi nữ thi sĩ thì cô kia mỉm cười đọc một bài thơ rồi biến mất. Phân tích bài thơ, Phùng nhận ra đó là thánh Liễu Hạnh. Dân làng Tây Hồ mới nhân câu chuyện đó lập một ngôi phủ để thờ bà.
***
Thời Bắc thuộc, Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn quê ở Thái Bình, năm 544 đánh bại quân nhà Lương, tự xưng đế lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước Vạn Xuân, đặt kinh đô ở Long Biên nhưng hiện nay cũng chưa biết đích xác Long Biên là vùng nào. Năm 545, nhà Lương xâm lượng lần nữa, Lý Nam Đế cho xây dựng thành bằng gỗ ở cửa sông Tô Lịch để chống giặc. Như vậy có thể nói Lý Nam Đế là người đầu tiên dựng thành lũy chống giặc ngoại xâm tại nội thành Hà Nội. Ngoài ra còn xây chùa ở sát bờ sông Cái, có tên là chùa Khai Quốc nghĩa là “mở nước”. Đến đời Lê Thái Tông gọi là chùa An Quốc. Đời Lê Kính Tông vì bãi sông lở, dời chùa vào hòn đảo Cá vàng ở Tây Hồ hiện nay. Đời Lê Hy Tông đặt tên là chùa Trấn Quốc. Năm 1884, Thiệu Trị đổi là Trấn Bắc. Nhưng cư dân vẫn quen gọi tên cũ là chùa Trấn Quốc, vì vậy chùa thuộc vào loại cổ ở nước ta vì có từ thời Lý.
(1000 Năm Thăng Long - Hà Nội - Tô Hoài/Nguyễn Vinh Phúc)
Xe kéo
Ai cần đi đâu thì có xe kéo. Xe kéo thuận lợi nhưng xã hội lại coi phu kéo xe là hạng người cực khổ, bị bóc lột sức lao động.
Đời thế, anh ơi, thế cũng khoe!
Hết trò phu cáng lại phu xe!
Văn minh chừng mấy ki-lô-mét
Tiến bộ như anh nghĩ chán phè.
(Tản Đà, Cái đòn cáng cùng người phu xe)
Phóng sự Tôi kéo xe (1932) của Tam Lang đã gây tiếng vang lớn. Người đọc bất ngờ khám phá ra khía cạnh tối tăm, "bùn lầy nước đọng" của Hà Nội.
Tú Mỡ tả một ông Chồng gàn (1952):
Ơn trời mắt sáng chân tay lành,
Xe đạp trèo lên phóng rất nhanh,
Hà tất xe nhà đầy tớ kéo,
Chẳng là không hợp lẽ trời sinh.
(Nguyễn Dư)
Phố phường Hà Nội
Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều kết luận khác nhau về phố phường của Hà Nội. Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi viết về kinh đô như sau: Từ Lý đến nay, có 2 huyện, 36 phường. Hai huyện là Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có 18 phường.
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" Kỷ nhà Trần: năm 1230 định các phường về hai bên tả hữu kinh thành, bắt chước đời trước chia làm 61 phường. Sách "Làng xóm Việt Nam" Ngày xưa, ở Hà Nội có rất nhiều phường, và mỗi phường ở một khu, sau biến thành phố, và những phố này thường chỉ gồm những người cùng làm một nghề hoặc cùng bán một loại hàng. Hà Nội trước thời Pháp thuộc có 36 phố phường, với 36 nghề.
Trễ nhất là từ đầu thế kỷ 20, hai tiếng "phố phường" được hiểu, được dùng để chỉ phố xá (Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị). Cụm từ "Hà Nội băm sáu phố phường" được nhiều tác giả mà điển hình là Thạch Lam dùng để chỉ thành phố Hà Nội.
(Nguyễn Dư – Chimviet.free.fr)
“Nhiều chuyện” với hẻm
(Hẻm 47 Duy Tân gọi là “hẻm Trịnh”)
Muốn vứt bỏ cái ồn ào ngột ngạt của phố thị, có thể “trốn” vào một con hẻm nhỏ, nơi đó có quán cà phê cóc. “Hẻm Trịnh” (hẻm 47 đường Duy Tân) là một trong những địa chỉ mà cánh nhà văn, nhà báo lui tới vào mỗi sáng. Gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh sống ở căn biệt thự cuối con hẻm này.
Hẻm rộng, sạch sẽ, có cây xanh từ những ngôi biệt thự nằm hai bên hẻm tỏa bóng mát. Hẻm có quán cà phê cóc nên được gọi cà phê “hẻm Trịnh”. Cái tên cà phê “hẻm Trịnh” do một vài văn nghệ sĩ lui tới cà phê đặt cho. Cà phê ở đây chưa ngon, chỗ ngồi chẳng có gì đặc biệt, giá cũng không rẻ, cái bề ngoài của bà chủ quán trông khó ưa nhưng “hẻm Trịnh” lại có sức hút đến kỳ lạ.
(Trần Tuy An)
Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố
Đàn gảy tai trâu
Thành ngữ 对牛弹琴 [đối ngưu đàn cầm] (Đàn gảy tai trâu). Xưa ông Công Minh Nghi là người có tiếng đàn nổi tiếng hay. Một ngày dạo chơi thấy con trâu đang thong dong gặm cỏ. Tức cảnh sinh tình, ông liền gẩy điệu cao nhã. Nhưng con trâu vẫn bình thản gặm cỏ. Sau khi quan sát, ông nhận thấy tuy trâu nghe thấy tiếng đàn của ông, nhưng vì khúc nhạc này không phù hợp với trâu khiến nó không thể cảm thụ và thưởng thức được. Biết vậy, Công Minh Nghi chuyển sang 1 khúc nhạc dân dã hơn. Con trâu nghe thấy tiếng đàn nhầm tưởng với tiếng ruồi muỗi vo ve, tiếng bê con kêu, nên dỏng tai chăm chú lắng nghe.
Đến cuối đời Đông Hán, có người thông tuệ đạo Phật tên Mâu Dung dạy các đệ tử Nho Giáo. Các đệ tử không hiểu, ông kể lại câu chuyện “đàn gẩy tai trâu” cho họ nghe. Từ đó “đàn gảy tai trâu” trở thành một thành ngữ được sử dụng cho đến ngày nay.
(Nguyễn Ngọc Kiên)
Mắm Long Xuyên - 1
Có cụ Tam Nguyên Yên Đỗ, không thể không nhắc đến cụ non Côi sông Vị…Một công đôi chuyện, người tầm khảo ba điều bốn chuyện thêm về…mắm: Tản Đà, thập niên 40 vào Nam thăm bạn chữ nghĩa nhà ông Cai Tổng. Tản Đà xuýt xoa nhìn những món ngon được đặt lên tấm ván ngựa có mâm kia ngoài chai đế, để đầy khế chua, rau sống, gừng lát, chuối chát, ớt nguyên trái, thịt ba rọi luộc chín xắt ra từng miếng, bánh tráng, và một dĩa mắm....
Ông bà Cai Tổng mời nhà thơ cùng ngồi lên ván, bắt đầu bữa tiệc. Cô Tư không ăn chung, ngồi ghế chờ sai bảo.
- Đây là món gì?
Tản Đà chỉ tay vào dĩa mắm, mùi thơm của mắm khiến nhà thơ ứa nước miếng.
- Thưa tiên sinh, đây là món mắm do chính con Tư nhà tôi làm.
Bà chủ mau mắn đáp. Bà ta vừa nói vừa lấy bánh tráng cuốn mắm, khế chua,...Xong cho vào một dĩa không.
- Bánh tráng cuốn này chấm với nước mắm ăn rất ngon. Mời tiên sinh dùng thử.
Bà Cai Tổng hai tay cầm dĩa bánh tráng cuốn đưa cho Tản Đà.
- Tiên sinh dậm thêm trái ớt hoặc tép tỏi lại càng đậm đà hơn.
Thi sĩ cứ y như lời, dùng ngay, không khách sáo. Ăn tới đâu, đã mồm tới đó. Càng ăn, càng đã. Chẳng mấy chốc mâm có mắm gần cạn.
- Xin hỏi cô Tư món mắm này là thế nào?
Cuối tiệc, Tản Đà quay sang hỏi cô con gái cưng của gia chủ.
- Dạ thưa, đó là mắm Long Xuyên.
Tản Đà tấm tắc khen làm cô Tư hai má ửng hồng. Rồi ra chiều hả hê, nhà thơ lim dim hai mắt, ngâm nga mấy vần thơ:
Còn trời, còn nước, còn non
Tiền trình vạn lý, anh còn chơi xa
(nguồn: Trần Thế Kỷ)
(xem tiếp kỳ tới: Mắm Long Xuyên - 2)
Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”
Tại Urals, Yuri cùng gia đình khai phá đất làm ruộng và… làm thơ. Tại thư viện làng, chàng gặp lại Lara và hai người bước vào thế giới yêu đương vụng trộm. Đó cũng là lúc Lara biết tin chồng còn sống và hiện là một tay Trùm Đỏ khét tiếng với tên mới Strelnikov.
Yuri muốn trở về với vợ để thú nhận tội ngoại tình nhưng không may bị một nhóm quân cách mạng bắt cóc và phải phục vụ như bác sĩ của nhóm này. Sau vài năm, Yuri trốn thoát và trở lại với Lara. Để tránh không bị điểm chỉ, cặp tình nhân bỏ trốn sang một nông trại khi xưa gia đình Yuri từng canh tác.
Yuri tiếp tục làm thơ, bày tỏ tâm sự của chàng về những thăng trầm của đời sống, những lo sợ và lòng can đảm trong chiến tranh và hơn hết là tình yêu dành cho Lara. Trong khi đó có tin vợ Yuri là Tonya và con gái chàng bị trục xuất khỏi Nga.
Chẳng bao lâu sau đó, Komarovsky, kẻ đã từng hãm hiếp Lara khi xưa, xuất hiện. Hắn hăm dọa rằng quân cách mạng đang truy lùng Yuri và Lara và sẽ giết cả hai nếu bắt được. Hắn hứa giúp đưa Yuri và Lara trốn ra nước ngoài.
Yuri đắn đo và vì vấn đề an toàn cho Lara, chàng quyết định để Lara ra đi một mình. Yuri ở lại Nga và bắt đầu say sưa uống rượu giải sầu như một người Nga chính thống!
Yuri trở lại Moskva và sinh sống cùng một phụ nữ tên Marina và kiếm sống bằng cách viết sách. Yuri xin vào làm tại bệnh viện và rồi trên đường đi làm, chàng bị đột quỵ. Lara tình cờ đi tới nhà xác và… xác Yuri vẫn còn nằm đó. Sau vài ngày, người ta không còn thấy Lara. Có người cho rằng nàng đã bị bắt đi trại tập trung cải tạo.
(Nguyễn Ngọc Chính)
"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
("Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết)
Nguyễn Hưng Quốc gọi ông là “Ông Bụt Sách”. Tôi gọi ông Thành Tôn là “Ông Đạo Sách”. Hai ông nhân tình của sách này bị cột chặt vào nhau từ kiếp nào không biết. Kiếp này họ bên cạnh nhau từ ngày ở trong nước khi ra hải ngoại. Chuyện dây dưa này tôi sẽ nói sau.
“Ông Văn Nghệ” tôi nói tới đây là Đại Đức Từ Mẫn hay ông Võ Thắng Tiết. Muốn gọi thế nào cũng được. Lần đầu gặp ông tại Quận Cam, tôi gọi ông bằng “thầy”, ông nhỏ nhẹ vào tai tôi: “Đừng gọi tôi bằng thầy!”. Thực ra ông đã từng là thầy. Ông đi tu từ năm 13 tuổi. Khi đó ông đang theo học tại trường Thạnh Mỹ Lợi ở Giồng Ông Tố, Gia Định. Rồi trường bị Nhật bỏ bom tan nát. Ông phải nghỉ học đi chăn trâu. Một bữa ông đang ở ngoài đồng thì cha ông gọi về đưa lên chùa tu. Thế là ông đi tu. Ông rất ham mê đọc sách tuy vẫn không trễ nải việc kinh kệ.
Cơ duyên với sách đến với ông vào đầu năm 1964. Năm đó, phu nhân bác sĩ Hiệu, một nữ Phật tử thuần thành, muốn cúng dường cho vài thầy ở Sài Gòn một số tiền. Số tiền này là tiền bà bán một căn villa khá lớn ở khu cư xá - Lữ Gia, Sài Gòn, sau khi chồng mất, để qua định cư tại Mỹ với con trai. Con trai bà cũng là một bác sĩ tại Mỹ căn dặn bà không mang tiền bán nhà theo mà hiến tặng cho các cơ quan từ thiện. Số tiền bán được khá bộn. Bà tặng cho thầy Nhất Hạnh 35 ngàn, một số tiền được coi là rất lớn vào thời điểm đó. Thầy Nhất Hạnh họp với một số thầy để bàn coi sẽ sử dụng số tiền này như thế nào. Họ quyết định lập một nhà xuất bản mang tên Lá Bối. Thầy Thanh Tuệ được chọn phụ trách nhà xuất bản này.
(Khuyết danh)
Chữ nghĩa làng văn
Mình khuyên mình, mà mình nói mình mình nghe
Mình nói để tự mình mình, mình cứ lo mình mình đi
(Trau giồi tiếng Việt - ĐatViet.com)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Một hôm mộng thấy :
- Nợ nần bủa vây
- Bệnh hoạn tật nguyền
- Tai họa triền miên...
Giật mình tỉnh giấc: ta vẫn là ta
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Nếu xuống xe điện trạm Mạc Đĩnh Chi ra đường Norodom phía rạch Thị Nghè -Thảo Cầm Viên . Con đường lịch sử có: Thống Nhất, thời Pháp gọi là Norodom. Ở hai đầu đường này là Dinh Toàn Quyền và Sở Thú-Thảo Cầm Viên
Sau lưng dinh Đôc Lập nay là Hội trường Thống Nhất là công viên Tao Đàn, người xưa gọi là vườn ông Thượng (đức Thượng công Lê Văn Duyệt) hay là vườn Bồ Rô. Trong khuôn viên vườn có khu Câu lạc bộ Thể thao (Cercle Sportif Saigonais) năm 1902 gồm sân đá banh (túc cầu hay bóng đá), hồ bơi, và sân quần vợt.
Tiện đây cũng nên biết trường trung học đầu tiên được Pháp xây dựng gọi là Chasseloup-Laubat nằm trên đường Chasseloup Laubat (trước 75 Hồng Thập Tự) sau đổi thành Jean Jacques Rousseau rồi Lê Quý Đôn tới ngày nay. Tưởng cũng nên nhắc lại trên đường Phan Đình Phùng có trường nữ trung học đầu tiên ở Saigon - trường Gia Long được xây cất 1913, xưa gọi là trường Áo tím, vì nữ sinh mặc áo dài màu tím đi học.
Đi về phía đường Lê Lợi là 2 hai tòa nhà lịch sử quan trọng. Pháp Đình Sài Gòn- nằm trên đường Công Lý
Pháp Đình Saigòn trên đường Công Lý
Góc đường Công Lý và Gia Long có dinh Gia Long, nơi đây là chỗ ở dành cho thượng khách viếng thăm VNCH, trước đó là dinh thự của Thủ hiến Cochinchina
Dinh Gia Long thời Pháp
Sở Thú nằm trên đường Nguyên Bỉnh Khiêm, cuối đường Thống Nhất, đối diện với Dinh Toàn Quyến.
Trong khuôn viên Thảo Cầm Viên có Viện Bảo Tàng Quốc Gia, đền thờ Hùng Vương
(Y Nguyên - Mai Trần)
Êch ngồi đáy giếng
Ếch ngồi đáy giếng là câu vay mượn của hai tứ tự thành ngữ chữ Hán: “tỉnh để chi oa” và “tọa tỉnh quan thiên”. tỉnh để chi oa, tỉnh là cái giếng, để là đáy, oa là con ếch. Tọa tỉnh quan thiên, tọa là ngồi, tỉnh là giếng, quan là xem, thiên là trời.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
Sáu năm không gặp mặt, chỉ một thoáng nhíu mày, anh đã nhận ra tôi. Duy lần gặp lại đó, chứ không phải sau này, anh để râu, chịu giải phẫu nhiều lần, héo hắt vì ung thư tàn phá, tôi thấy anh già hẳn. So với cái hình ảnh Quần Tín tôi còn giữ được nguyên vẹn về anh, sáu năm về trước. Có phải là sau những biến thiên, đều không nhiều thì ít, đã thả xuống những mái sống rực rỡ nhất, những phiến bóng rợp ngậm ngùi buồn bã? Có phải là sau một lựa chọn, một thay đổi, cũng cứ là đã lẻn nhập vào những cõi tinh thần vững vàng, tích cực nhất, những hoài nghi phảng phất ở chính mình? Có phải là rũ bỏ một quá khứ hành động, cho là rũ bỏ thuận tình đến đâu, cũng vẫn trong tâm linh bâng khuâng, những bóng ma cũ thấp thoáng? Những điều đó, nếu có, anh không nói ra với tôi. Anh chỉ già đi, thế thôi. Ngừng viết, ung dung, trong cái phong cách thoải mái của một người hoà thuận với thêm một hoàn cảnh nữa của đời mình, anh hỏi thăm tôi về một số người ngoài kia, khoảng thời gian anh đã bỏ đi, tôi còn ở lại. Sơ sơ về hết thảy.
Nhiều về những đồng hành cũ thời Hàn Thuyên. Về Đặng Thái Mai, anh gật: "Ở lại, đành rồi. Anh ta không thể làm khác". Về Trương Tửu, anh suy nghĩ rồi mơ hồ: "Muốn làm cách mạng phải có đủ ba thứ Courage, Morale, Intelectuelle. Physique nữa".
Về anh, đang viết Nhân Bản Mới trên bàn viết Đời Mới: "Họ là một cản trở mình, mình cũng là một cản trở lớn cho họ. Ở lại, mình bị đẩy làm toa đen cho họ kéo. Tội gì". Mỉm cười, anh tiếp, giọng bông đùa: "Về đây, may ra mình làm được ông đầu tàu, kéo được vài toa đen làm đồng hội đồng thuyền, khỏe hơn". Với Đàm Trường Viễn Kiến, với Di Ngôn đi theo người muốn trở về cát bụi hoàn toàn, bằng hỏa táng hình hài, anh Quỳnh không ngừng nỗ lực làm cái điều anh nói với tôi ở Đời Mới hôm đó.
(Mai Thảo)
Tạp chí Văn, số tháng 6, 1974
Góp nhặt cát đá
Mộng
Một hôm mộng thấy:
- Giàu sang tột đỉnh
- Quyền cao chức trọng
- Hạnh phúc tràn đầy...
Giật mình tỉnh giấc: ta vẫn là ta
Buồn
Gỏi đu đủ bò khô
Cái món ngon chết người đi được này là món ta hay món tầu, nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi. Tác giả Lưu Khâm Hưng có vợ người Tàu thắc mắc. Ông cũng nghĩ đây không phải là món của người Hoa nên hỏi vợ cho chắc ăn. Ai ngờ bà vợ trả lời tỉnh queo: “Hồi đó đi học ăn hoài, dường như món này của người Tàu. Mấy xe bán gỏi đu đủ khô bò ở Chợ Lớn đều do mấy ông Tiều bán. Bởi vậy ăn gỏi khô bò đâu có chan nước mắm mà là chan nước tương pha giấm ớt”.
Nhưng tới năm 1915, cụ Phan Kế Bính đã liệt kê trong cuốn “Việt Nam Phong Tục”: “Về thứ đồ ăn thì nhất là hay dùng những thịt trâu, bò, dê, lợn, gà ,vịt, chim, ếch, tôm, cá, cua, ốc… thịt lợn cần dùng hơn hết”. Tác giả Minh Lê viết: “Vậy vào thời điểm cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, điều kiện “cần và đủ” cho gỏi khô bò đã có, chuyện còn lại là khoảng năm nào và có ở đâu trước?
Tác giả Nguyễn Duy Hảo, bút hiệu Ba Lăng, ăn gỏi khô bò từ 1948: “Thú thật là tôi không được biết rõ món đu đủ bò khô có từ bao giờ và nguồn gốc của nó do ai sáng chế ra món ăn đáng nhớ này. Riêng cá nhân tôi đã được thưởng thức món quà đặc biệt này từ năm 1948 tại cổng trường tiểu học Hàng Than Hà-Nội”.
(Song Thao)
10 câu nói của Tào Tháo
Nghe giai thoại rằng Tào Tháo hỏi Tư Mã Ý:
"Tại sao lòng bàn chân trắng hơn mặt và tay?"
Ý nghĩ hoài không biết trả lời làm sao. Tháo lại bảo:
"vì lòng bàn chân nó biết giấu mặt."
Lòng bàn chân ai cũng có phần lõm vào, có thể giấu được cái gì đó. Nên ở đời đừng để người ta nhìn rõ hết ruột gan. Ám chỉ Tào Tháo biết Ý có lòng riêng nên cảnh cáo
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
Chữ nghĩa làng văn
Vũ Trọng Phụng thèm miếng bí tết cho tới chết, Kiên Giang chết vì đói, Sơn Nam chết vì không rượu. Nỗi khổ về tinh thần của nhà văn còn gấp bội nỗi khổ về vật chất. Chẳng bút nào tả xiết nỗi cay đắng của nhà văn. Phùng Quán câu cá trộm, Nguyễn hữu Đang chắt bóp từng bao thuốc lá để đổi những con cóc, Hữu Loan chở đá rách vai, Nguyên Hồng trở lại Thái Nguyên với núi rừng…
(Nhà văn An Nam khổ như chó – Chân Diện Mục)
Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
(tựa đề nguyên thủy: Đống tro tàn - Phạm Phú Minh)
Trần Văn Thủy vốn là người làm phim tài liệu (Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế), luôn luôn ghi nhận và viết xuống những đề tài mà ông cho là đáng làm phim trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của ông, nhưng tiếc thay không mấy dự định của ông đã được thực hiện. Chương “Những kịch bản không thành phim” ông ghi lại nội dung một câu nói của thân phụ ông mà suốt đời ông không quên, đó là câu thân phụ ông thốt ra một cách bình tĩnh sau khi chứng kiến cảnh người bạn thân của mình (bác Phó Mâu) đã bị bắn chết trong cuộc đấu tố: “Sau hôm về chợ Cồn để chôn cất bác Phó Mâu, Thầy tôi lên gác nằm. Một lát sau ông cho gọi tôi và Lai, người em sát tôi lên. Hai chúng tôi ngồi chờ bố bảo gì. Ông vẫn nằm vắt tay lên trán, im lặng. Không hiểu sao những lúc
(Phạm Phú Minh)
Tiểu sử: Trịnh Công Sơn sinh ngày: 28-2-1939 tại Lạc Giao. Chính quán: Minh Hương.
Mất ngày 1-4-2001, an táng tại Nghĩa trang Gò Dưa, Bình Dương.
Tác phẩm: Ướt mi, Biển nhớ, Lời buồn thánh, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Ca khúc da vàng, Như cánh vạc bay, v…v…
***
Phụ đính I
Chữ nghĩa làng văn
Chữ và tiếng nói với Tô Hòai
Ông (Tô Hoài) rất chú ý học chữ và chê nhiều người viết văn bây giờ thiếu chữ và dùng chữ rất ẩu. Nhiều chữ họ không hiểu. Làm văn thì phải học chữ. Có cách học và chịu khó thì học được. Một chữ “ăn’, bao nhiêu chữ cùng nghĩa: xơi, đưa cay, đớp, hốc, xực, đả, nhậu....Chúng ta nên tỉ mỉ để ý cả. Này các thứ khoá: khoá ngang, khoá dọc, khoá tây, khoá sáu tua, khoá đuôi chuột, bạn đã biết thứ khoá nào chưa? Ví dụ: khoá cửa đình ngày trước thì khoá gì? Nếu chưa biết thì nghề viết văn đòi bạn phải biết.
Vào một cái nhà, nếu chỉ biết lác đác vài tiếng cột, kèo, rui mè thì chưa hiểu biết mấy về cái nhà. Một chữ “chết” có bao nhiều chữ cùng nghĩa: tạ thế, chầu giời, về quê, xuống suối vàng, ngoẻo, tử, héo, tỏi, thẳng cẳng, ngẳng, toi, mất, khuất núi, hy sinh và còn biết bao chữ nữa.
(Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét