VietTimes: Việc ông Patrick Vallance – cố vấn cao cấp nhất về khoa học của Chính phủ Anh – cho rằng Anh lựa chọn cách “miễn dịch cộng đồng” (herd immunity) để đối phó với dịch virus Corona chủng mới (COVID-19) đã làm dấy lên cuộc tranh luận cả ở Việt Nam. Việt Nam có nên chọn cách miễn dịch cộng đồng để chống dịch và vì sao? Câu trả lời sẽ được GSTS Lê Thị Hương – Viện trưởng Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội – trao đổi cặn kẽ trong cuộc trò chuyện với VietTimes.
GSTS Lê Thị Hương giải thích cho sinh viên về Covid19
Phóng viên: Là chuyên gia về y tế công cộng, giáo sư có thể cho biết quan điểm về vấn đề miễn nhiễm cộng đồng mà ông Patrick Vallance cố vấn cao cấp nhất về khoa học của Chính phủ Anh đang ủng hộ?
GS. Lê Thị Hương: Thực tế quan điểm miễn dịch cộng đồng dựa trên một nhận định sai lầm là số tử vong phía ngoài Trung Quốc chỉ ở mức 0,2%, hay bệnh COVID19 chỉ là một bệnh nhẹ như cúm, nên thay vì phòng chống, có thể sống chung với bệnh được và từ đó có miễn dịch cộng đồng.
Lập luận này sai lầm bởi vì thời điểm đầu, các quốc gia ngoài Trung Quốc chỉ có các trường hợp xâm nhập, hệ thống y tế hoàn toàn có thể điều trị tốt một vài trường hợp lẻ tẻ và rất hiếm tử vong nhưng một bệnh có khả năng lây nhiễm mạnh như COVID19, khi tấn công vào một quốc gia không áp đặt những giải pháp cách ly phù hợp sẽ kết quả là quá tải hệ thống y tế trong thời gian ngắn và tỉ lệ tử vong sẽ tăng nhanh chỉ sau 15-17 ngày bệnh xâm nhập như những gì xảy ra tại Ý.
Vì vậy, những gì Việt Nam lựa chọn và kiên trì tính đến thời điểm này vẫn còn nguyên giá trị và thực tế là các quốc gia khác đang học hỏi chúng ta trong xử lý dịch.
PV: Một số ý kiến cho rằng Anh là một nước có nền y tế phát triển lại lựa chọn phương pháp đó, thì Việt Nam cũng nên làm theo để sớm khống chế được dịch COVID-19. Theo giáo sư, Việt Nam có thể làm được không? Tại sao?
GS. Lê Thị Hương: Nền y học phát triển có thể giúp phát hiện sớm, điều trị tốt cho một số bệnh, thậm chí là hầu hết các bệnh, tuy nhiên nguồn lực y tế thì không phải là vô hạn. Việc lây nhiễm lại không phụ thuộc vào việc điều trị tốt, mà phụ thuộc rất lớn vào cách ly và khống chế không để dịch lây lan.
Về mặt phát hiện sớm, Việt Nam chưa thể đưa ra kết quả chẩn đoán nhanh như Anh, hay làm trên diện cực lớn như Hàn Quốc. Việt Nam phải lựa chọn phương án an toàn hơn phụ thuộc vào nguồn lực tại Việt Nam, chứ không đua về nguồn lực như Anh và Hàn Quốc được.
Cho đến thời điểm hiện tại, cách tiếp cận của Việt Nam vẫn bám sát với thế giới, về xét nghiệm, Việt Nam đã phân lập được virus và trở thành một trong những quốc gia hàng đầu phân lập thành công virus. Về xét nghiệm, kỹ thuật RT-PCR thời gian thực của Việt Nam đạt độ chính xác cực cao, trong dung dịch lấy mẫu, chỉ cần có 10 đến 100 con virus trong đó là xác định dương tính, tức là độ chính xác gần như tuyệt đối. Đây là lý do để có thể tự tin giải phóng các trường hợp tiếp xúc thứ cấp nếu người tiếp xúc gần đã âm tính.
Tuy vậy, điều kiện về hiểu biết chung xã hội và điều kiện kinh tế xã hội của nước ta không thể so với các quốc gia phát triển, việc khống chế dịch theo cách của các nước là không thể sử dụng, Việt Nam phải dùng cách của Việt Nam, và cách đó đến giờ vẫn còn nguyên giá trị.
PV: Nếu chúng ta áp dụng như Anh, rủi ro y tế sẽ là gì, thưa giáo sư?
GS. Lê Thị Hương: Quay lại câu hỏi phía trên, với cách phân tích này, nếu ta áp dụng theo cách của Anh Quốc, phải nói thêm là đến giờ bản thân nước Anh cũng đã thừa nhận là sai lầm, tức là để mặc cho dân tự nhiễm. Nếu may mắn, chỉ 0,2% tử vong, vậy số tử vong tại Việt Nam là bao nhiêu với 90 triệu dân và 70% mắc. Số tử vong sẽ là 70%*90 triệu*0,2% là 126000 ngưởi tử vong. Ai sẽ chấp nhận là 1 trong số 126 ngàn người đó.
Thêm nữa, đấy là khi không hề có quá tải y tế. Nếu quá tải y tế như Ý, số tử vong sẽ là 4-7% chứ không phải 0,2% và số chết sẽ là 5-9 triệu người. Ai sẽ chấp nhận là 1 trong số 5 triệu người đó. Chưa nói sẽ rất nhiều bác sĩ tử vong. Và đây mới chỉ là số lý thuyết.
Trong số 50 bệnh nhân đã và đang nằm viện, cũng đã có 10 người triệu chứng nặng (20%). Nếu không có can thiệp y tế rất bài bản, chắc chắn đã có người tử vong, nếu số mắc là hàng loạt, bao nhiêu cái chết sẽ không thể tránh nổi? Đó không phải là vấn đề rủi ro ý tế nữa, đó là vô nhân đạo, là vô đạo đức trong triết lý về phòng chống dịch.
PV: Với tư cách một chuyên gia hàng đầu về y tế công cộng, giáo sư đánh giá thế nào về việc xử lý dịch COVID-19 của Việt Nam? Ở giai đoạn 1 đã chứng minh tính hiệu quả là rất cao, nhưng những giải pháp mà chúng ta đã làm ở giai đoạn 1 liệu có phù hợp với giai đoạn 2 đầy thách thức, khi chỉ trong 1 tuần trôi qua, số ca nhiễm đã tăng rất cao, mà theo các chuyên gia, đó mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm?
Các bệnh viện tổ chức đo thân nhiệt để phát hiện người có dấu hiệu bị bệnh viêm đường hô hấp cấp (ảnh trên VietTimes: Nguyễn Hương)
GS. Lê Thị Hương: Hiện tại, cách xử lý của Việt Nam vẫn chứng minh hiệu quả, có điều là, giải pháp này sẽ thành công với hai điều kiện: sự quyết liệt của chính sách và sự tuân thủ của người dân.
Trước tình hình mắc bệnh ở nước ngoài, hàng ngàn người muốn tháo chạy khỏi các quốc gia có dịch về Việt Nam. Việc các ca bệnh lọt vào Việt Nam là hoàn toàn có thể và chính là lý do số mắc tăng nhanh trong đợt vừa rồi. Vấn đề là, khi lọt vào sẽ còn một mạng lưới giám sát cũng như việc bệnh nhân tự ý thức được sức khỏe và đi khám. Từ đó sẽ tóm bắt được ca bệnh.
Cho đến thời điểm hiện tại, các trường hợp xác định đều có nguồn gốc nhiễm bệnh rõ ràng và ta có cơ sở để tin rằng đó là những trường hợp thực sự cần tóm bắt. Việc có ca bệnh khác không rõ nguồn gốc ngoài cộng đồng hiện vẫn chưa có bằng chứng nào cả để có thể nói sự tồn tại phần nào khác của tảng băng.
PV: Theo giáo sư, cuộc chiến chống dịch COVID-19 ở Việt Nam đang có điều gì thuận lợi nhất và điều gì là thách thức lớn nhất?
GS. Lê Thị Hương: Thuận lợi trong cuộc chiến này là sự vào cuộc mạnh mẽ của hệ thống chính trị, sự tham gia nhiệt tình của người dân, toàn thể cộng đồng do đó các trường hợp nghi ngờ về từ vùng dịch đều rất nhanh bị phát hiện và được lấy mẫu kiểm tra. Mọi nguồn lực hiện tại đang có đều ưu tiên cho dự phòng và điều trị bệnh, đảm bảo đủ kit xét nghiệm cũng như đảm bảo thuốc và vật tư chống dịch. Từ đó hệ thống vẫn chạy đều cho đến hiện tại.
Việt Nam cũng là quốc gia có kinh nghiệm trong các cuộc chiến trước với tiền nhiệm của virus này/virus SARS-CoV. Đây là cơ sở cho sự thành công của chống dịch. Điều khó khăn là nguồn lực của Việt Nam cũng có hạn và nhiều phương tiện còn phải nhập từ nước ngoài, khi các nước đều phải dồn lực cho chống dịch, Việt Nam sẽ khó khăn trong việc nhập khẩu vật tư cũng như phương tiện chống dịch, nếu Việt Nam vẫn phải căng mình chống dịch còn thế giới không có đáp ứng tương xứng và người về vẫn cứ nhiều thì sẽ đến lúc nguồn lực của ta cạn kiệt và buông xuôi.
Vì vậy, trong thời gian ngắn trước mắt, cần có phản ứng quyết liệt hơn của chính phủ như ngừng hẳn việc cho phép các chuyến bay về từ châu Âu mới có thể đảm bảo cơ hội thành công cho Việt Nam.
Việt Nam vẫn đang làm tốt việc cách ly những người có dấu hiệu bị bệnh COVID-19 hoặc có yếu tố dịch tễ
PV: Trong khi các nước đều đã có tử vong do dịch COVID-19 mặc dù phương tiện thiết bị y tế họ tốt hơn, thì ở ta đến nay, hầu hết các ca COVID-19 đều nhẹ, chưa ai phải thở máy – trừ 1 người Trung Quốc có bệnh nền nhưng đã hồi phục. Có phải vì ta có phác đồ tốt, hay do khí hậu thời tiết ở ta không phù hợp cho độc lực của virus Sars-Cov-2 phát triển?
GS. Lê Thị Hương: Chưa đủ thời gian để có thể bình luận về điều này. Hiện tại cũng đã có những trường hợp bệnh tiến triển khá nặng trong số 50 bệnh nhân đã và đang điều trị. Việt Nam thành công do ta dồn lực điều trị cho những bệnh nhân này và bệnh nhân cũng không quá lớn tuổi và không quá nhiều bệnh lý nền. Trong thời gian tới hy vọng không có nhiều bệnh nhân để chúng ta tiếp tục được thành công này.
PV: Với tốc độ tăng của dịch ở Việt Nam, trên thế giới và ở Trung Quốc, giáo sư tiên lượng dịch COVID-19 sẽ lên đỉnh ở thời điểm nào trước khi thoái trào?
GS. Lê Thị Hương: Với sự tích cực của Việt Nam trong quá trình giám sát, cách ly và điều trị bệnh, cùng với sự tăng cường kiểm soát đầu vào từ các quốc gia, chúng tôi hy vọng số lượng trường hợp mắc sẽ giữ ở mức tăng rất chậm và dừng khi không còn quốc gia khác xâm nhập.
Nghĩa là nếu thành công tiếp trong chiến dịch này, sẽ không có hiện tượng đỉnh dịch và Việt Nam sẽ công bố thành công khống chế dịch thay vì xuất hiện đỉnh dịch rồi tiến đến thoái trào.
Trong một kịch bản xấu hơn, khi tồn tại các trường hợp mắc âm thầm trong cộng đồng, dịch có thể xuất hiện lẻ tẻ, nhưng sẽ sớm kết thúc trước tháng 5 khi thời tiết trở nên rất nóng và các quốc gia khác trên thế giới đã tiến vào giai đoạn đuôi dịch.
Xin cám ơn giáo sư đã trao đổi!
Thanh Hằng (thực hiện)
Bình luận của độc giả Phạm Việt Hưng trên VietTimes:
Hoan hô GSTS Lê Thị Hương! Quan điểm của GSTS Lê Thị Hương rất đúng đắn, rất khoa học! GSTS Lê Thị Hương và nhiều nhà khoa học khác tương tự ở VN đã cứu người Việt Nam. Người VN biết ơn những nhà khoa học thông minh tài giỏi và đầy tình yêu thương đối với cộng đồng như thế. Người VN cũng sẽ biết ơn những nhà lãnh đạo chính trị có quyết sách đúng đắn, nhanh chóng ủng hộ các nhà khoa học VN trong việc ngăn ngừa và chống lại đại dịch Covid19 hiện nay. Tôi vô cùng xúc động khi nghe GSTS Lê Thị Hương phê phán quan điểm của ông Patrick Vallance: “Đó không phải là vấn đề rủi ro y tế nữa, đó là vô nhân đạo, là vô đạo đức trong triết lý về phòng chống dịch”. Ông Patrick Vallance sai ngay ở tiên đề khi cho rằng Covid19 chỉ như một loại cúm thông thường. Có lẽ cũng vì nghĩ như thế nên bà thủ tướng Đức Merkel cũng từng tuyên bố có thể 70% người Đức sẽ nhiễm Covid19. [Có lẽ những nhà khoa học cố vấn cho họ đã sai]. Thật tai hại cho nhân loại khi có những nhà khoa học dốt nát như thế. Bài học của chúng ta là đừng nên sùng bái mọi thứ của nước ngoài. Phải có bản lĩnh và trí tuệ để biết cái gì là đúng/sai. Phạm Việt Hưng Sydney, Australia
Bình luận của PVHg’s Home
1/ Tương tự như GSTS Lê Thị Hương, rất nhiều nhà khoa học hàng đầu có lương tri trên thế giới đã phản đối chiến lược “miễn dịch bầy đàn” của ông Patrick Vallance và những người cùng quan điểm với ông. Bài báo sau đây cho thấy rõ điều đó:
“229 nhà khoa học Anh ký thư ngỏ phản đối chiến lược miễn dịch cộng đồng” https://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/suc-khoe-24h/229-nha-khoa-hoc-anh-ky-thu-ngo-phan-doi-chien-luoc-mien-dich-cong-dong-624315.html
2/ Làm khoa học phải có bản lĩnh. Khoa học Tây Phương đạt được rất nhiều thành tựu để chúng ta phải học hỏi. Nhưng học hỏi không có nghĩa là nhắm mắt bắt chước. Việc nhắm mắt bắt chước rất nguy hiểm, vì bên cạnh những thành tựu, khoa học Tây Phương từng phạm rất nhiều sai lầm. Xin nêu hai thí dụ điển hình:
- Chủ nghĩa toán học hình thức do David Hilbert đề xướng trong thế kỷ 20 dẫn tới thảm họa giáo dục giữa thế kỷ 20, mệnh danh là “Toán học mới” (New Maths). Ngày nay người ta đã biết rằng logic hình thức là ngôn ngữ đặc thù dành cho computer chứ không phải ngôn ngữ dành cho con người.
- Học thuyết tiến hóa của Darwin. Đây là một thứ ngụy khoa học, bởi nó không hề có một bằng chứng nào để chứng minh một loài có thể biến đổi thành loài khác. Người ta lạm dụng chữ “tiến hóa”, mà quên đi rằng sự tiến hóa mà Darwin mô tả là sự biến đổi loài này thành loài khác. Thí dụ, người ta nói “virus tiến hóa” để kháng thuốc. Đó là làm dụng từ ngữ. Thực tế, virus chỉ biến hóa chứ không tiến hóa! Bởi vì virus vẫn chỉ là virus, virus không thể biến thành loài khác.
GSTS Lê Thị Hương là một người có bản lĩnh, vì thế đã không chấp nhận quan điểm của ông Patrick Vallance, dù ông là cố vấn khoa học cao cấp nhất của chính phủ Anh. Theo quan sát của cá nhân tôi, người có bản lĩnh tư duy độc lập như GSTS Lê Thị Hương không nhiều. Thật may mắn cho Việt Nam vì có những nhà khoa học giỏi và có bản lĩnh như GSTS Lê Thị Hương. Tôi rất ngưỡng mộ những người như thế.
3/ Một khi đã biết quan điểm “miễn dịch cộng đồng” của ông Patrick Vallance, cố vấn khoa học cao nhất của Chính phủ Anh, chúng ta có thể hiểu vì sao một số bệnh nhân Covid19 người Việt ở Anh đi khám bác sĩ mà không được xét nghiệm. Đó là trường hợp của bệnh nhân số…. và một số bệnh nhân khác. Nếu không biết quan điểm của ông Patrick Vallance, chúng ta sẽ không thể hiểu vì sao các bác sĩ ở Anh đối xử với bệnh nhân như vậy. Đúng như GSTS Lê Thị Phương đã nói: “Đó không phải là vấn đề rủi ro y tế nữa, đó là vô nhân đạo, là vô đạo đức trong triết lý về phòng chống dịch”.
4/ Xét cho cùng, việc áp dụng khái niệm “miễn dịch bầy đàn” vào trường hợp đại dịch Covid19 là cái ngu của con người mà Albert Einstein đã phải thốt lên lời thất vọng:
“Chỉ có hai cái vô hạn: vũ trụ và cái ngu của con người. Tôi không chắc về cái thứ nhất”
“Tính đa số của những người ngu xuẩn là vô địch và thiên thu trường tại”.
Tại sao vậy? Bởi những con số biết nói từ cuộc khủng hoảng đại dịch ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran, Ý,… đã quá đủ để thấy rằng Covid19 không phải là virus cúm thông thường! Thực tế ở Anh cũng đã cho thấy điều đó. Cái sai của ông Patrick Vallance là cái sai chết người!
Vậy chúng ta phải ngàn lần cảm ơn GSTS Lê Thị Hương và những nhà khoa học tương tự!
PVHg, Sydney 16/03/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét