Lời ngỏ
Trong quá trình tìm hiểu và biên dịch các sách cổ điển về Khổng học ở Nhật Bản, người viết thường phải tra cứu để hiểu nghĩa chính xác của các từ Hán- Hòa, Hán- Việt. Đồng thời phát hiện cùng một từ nhưng có những trường hợp sau:
1) Có nghĩa được ghi chép trong các từ điển Hán-Hòa của tiếng Nhật nhưng không được ghi chép trong các từ điển Hán- Việt của tiếng Việt.
2) Có trường hợp nghĩa trong tiếng Việt và tiếng Nhật hơi khác nhau hoặc khác nhiều.
3) Có những chữ Hán cổ có trong từ điển tiếng Nhật mà không có trong từ điển tiếng Việt v.v…
Sẵn dịp người viết tra cứu và ghi chép lại để tự học, xin được giới thiệu đến quý độc giả có quan tâm hoặc hứng thú muốn tìm hiểu thêm hoặc muốn ôn lại tiếng Việt cùng sử dụng, gọi là “1 công 2 việc”. Tuy nhiên không biết tiếp tục được đến bao lâu. Nếu “giữa đường đứt gánh” xin được thông cảm mà tha lỗi cho.
***
1. Nghĩa của phật uất và phẫn uất
Sáng nay đọc bài đầu trong Luận Ngữ Trưng của Ogyu Sorai, khi giải thích ý nghĩa chữ “uẩn” 慍, tác giả dùng từ怫鬱, nghĩa chữ này có thể là “phẫn uất” chăng nên tra thử trên tra Từ Điển Hán Nôm của thivien.net nhưng không có! Bèn tra từng chữ Hán trong Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, thấy như sau:
怫 phật, phí (8n)
1 : Uất, phật uất 怫鬱 uất tức quá muốn làm cho toang ra.
2 : Một âm là phí. Bừng bừng, tả cái sắc nổi giận.
Ngạc nhiên, nghĩ chẳng lẽ “phật” bị biến thành “phẫn” sao? Nên tra thêm Đại Tự Điển Hán Việt của Trần Văn Chánh thấy như sau:
憤 phẫn
1: Giận, tức giận, uất ức, căm tức, tức tối, cáu. Thí dụ, khí phẫn: Tức giận; công phẫn: Công phẫn; phẫn thế tật tục: Giận ghét thói đời (ghét đời).
2 (văn): Ấm ức, tấm tức, bực tức. Thí dụ, bất phẫn bất khải (thiên Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ): Nếu không ấm ức (muốn biết) thì sẽ chẳng gợi mở cho. (Lời của Khổng tử).
Nhận xét:
Không hiểu tại sao giải thích nghĩa của “công phẫn” là “công phẫn”?
Tra Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thấy viết:
Công phẫn: lòng tức giận chung của công chúng (colère publique).
Tra đến đây biết Luận Ngữ Trưng dùng “phất” thay vì dùng “phẫn” nên tra lại Thiều Chửu thấy như sau:
憤 phẫn, phấn (15n)
1: Tức giận, uất ức quá gọi là phẫn.
2: Một âm là phấn. bực tức, lòng muốn hiểu mà chưa hiểu được đâm ra bực tức gọi là phấn.
Nhận xét: Theo giải thích của Thiều Chửu thì âm Hán Việt của憤trong Thuật Nhi- Luận Ngữ nói trên phải phiên “phấn” mới đúng! Bởi vì không phải “tức giận” (phẫn) mà vì “chưa hiểu được đâm ra bực tức” (phấn). Người viết thấy Thiều Chửu chính xác, hợp lý hơn. Thế mới biết âm Hán Việt và nghĩa chữ Hán rất khó hiểu đúng và chính xác! Cùng một chữ viết mà ý nghĩa và âm đọc thay đổi, không cố định.
Một điểm khác nữa giữa Thiều Chửu và Trần Văn Chánh trong trường hợp này:
Âm Hán Việt khác của怫 (ngoài âm phật), Thiều Chửu phiên là “phí” nhưng Trần Văn Chánh phiên là “phị”. Người viết không biết đúng sai là đâu nhưng Đại Tự Điển của Trần Văn Chánh mới xuất bản năm 2022 và rất công phu ghi nhiều nghĩa, nhiều trích dẫn, nhiều chữ Hán, trong khi của Thiều Chửu vào năm 1942 nên hy vọng phiên âm của Trần Văn Chánh hợp lý hơn.
Ngoài ra, tưởng cũng nên giới thiệu thêm như sau.
2. Khác biệt giữa tự điển của Thiều Chửu và của Trần Văn Chánh
2.1 Thiều Chửu
忿 phẫn (8n)
1: Giận cáu, nhân giận phát cáu, không đoái gì nữa gọi là phẫn. Như phẫn bất dục sinh 忿不欲生 tức giận chẳng muốn sống.
鬱 uất (15n)
1: Uất kết, uất tức, khí nó tụ không tan ra, hở ra gọi là uất. Như uất kết 鬱結 uất ức, uất muộn 鬱悶 bậm bực, v.v.
2: Hôi thối.
3: Hơi xông lên, hơi nóng hun lên.
4: Uất kim 鬱金 nghệ.
慍 uấn (13n)
1: Mang lòng giận, hàm hận ở trong lòng gọi là uấn.
2: Tức giận.
2.2 Trần Văn Chánh
怫 phật
1: Buồn rầu, sầu muộn, u sầu.
2: Căm phẫn, phẫn nộ, giận dữ. Âm khác: phị.
怫 phị
1 (văn): Bực bội, buồn bực.
Nhận xét
Không hiểu tại sao nội dung giải nghĩa trên của “phị” lại là 1 của “phẫn” không phải là 2?
忿 phẫn (âm phấn quen đọc phẫn)
1: Tức giận, oán hận (dùng thông với憤)
2: bất phẫn nhi (khẩu ngữ): Không chịu thua, không chịu, không phục, bất bình, còn ấm ức. (Trd)
鬱 uất
1 : (Cỏ cây) tươi tốt, sum sê, um tùm, rậm rạp. ( có trích dẫn= Trd)
2: (văn) Dày đặc (mây, hơi nước). (Trd)
3: Uất kết, ứ đọng, chứa chất, tích tụ, dồn nén, u uất, sầu muộn. (Trd). Thí dụ:
– Ưu uất: U uất (u buồn, âu sầu, sầu muộn).
– Uất phẫn: Buồn bực, tức tối (phẫn uất)
– Uất ấp: Buồn bã (buồn rầu, phiền muộn, âu sầu)
– Uất đào: Bồn chồn (bứt rứt)
4: (văn) Ẩn giấu, giấu kín. (Trd)
5: (văn) Oán hận. (Trd)
6: (văn) Tắc tiếng. (Trd)
7: (văn) Mùi hôi của cỏ cây. (Trd)
8: Quả mận (nói trong sách cố). (Trd)
9: Uất kim hương (thực vật): Uất kim hương, hoa vành khăn (tiếng Anh: common garden tulip/ late tulip/ tulip; tên khoa học: Tulipa gesneriana)
Ghi chú:
– Trong Đại Từ Điển có nhiều trích dẫn (Trd) nhưng xin tỉnh lược ở đây.
– “(văn)”: văn ngôn. (nghĩa dùng trong viết văn, sách vở)
慍 uấn
1: (văn) Giận, hờn, bực tức. Trích dẫn 1: tỉnh lược ở đây. Trích dẫn 2: Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ? Người ta không hiểu mình mà mình không giận, như thế chẳng cũng là quân tử hay sao? (Học Nhi – Luận Ngữ). Thí dụ: diện hữu uấn sắc: Mặt có vẻ giận.
3. Giải nghĩa của Sorai
Trích dẫn trong giải nghĩa chữ “uấn” của Đại Từ Điển Hán- Việt đúng là phần người viết đọc sáng nay. Để thấy việc khó khăn của phiên âm Hán-Việt xin ghi lại dưới đây phiên âm của Nguyễn Hiến Lê trong quyển Khổng Tử & Luận Ngữ (nxb Văn Học):“nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?”(Dịch nghĩa: Nhưng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận thì chẳng cũng quân tử ư?”)
Phiên âm của Lý Minh Tuấn trong Tứ Thư Bình Giải (nxb Tôn Giáo, 2010) cũng là “uẩn” không phải “uấn”: “Nhân bất tri, nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?” (Dịch nghĩa: Người ta không biết đến mình, mà mình không giận hờn, chẳng phải là bậc quân tử đó sao?”)
Hãy xem Sorai giải thích nghĩa của “uấn” như thế nào?
“Uấn” là có sự phật uất trong lòng. Tôi cho rằng “uấn” và “uất” chỉ thay đổi có 1 âm (âm tiếng Nhật của uấn và uất lần lượt là u-n và u-tsu, nghĩa là chỉ khác nhau n và tsu) và chắc chắn không thể phiên nghĩa là nộ (giận).”
Người viết nghĩ rằng ý Sorai cho rằng “uấn” ở đây gần với “uất” hơn là “phẫn” nghĩa là “buồn nhiều hơn giận”. Giải thích này suy diễn từ tính cách của người quân tử hơn là nghĩa của chữ. Hơn nữa, nghĩa của thời Khổng tử đã chắc gì giống như hiện tại. Đây cũng là một trong những điều nên cẩn thận khi đọc sách cổ điển của thánh hiền thời xưa.
Nguyễn Sơn Hùng, Ngày 21/7/2025
Trở về trang chủ
Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng
Tài liệu tham khảo
1) Từ Điển Hán Nôm
2) Thiều Chửu (1942): Hán Việt Tự Điển
http://vietnamtudien.org/thieuchuu/
3) Đào Duy Anh (1931): Hán Việt Tự Điển
4) Trần Văn Chánh (2022): Đại Tự Điển Hán-Việt ~ Hán ngữ cổ đại và hiện đại~, nhà xuất bản Hồng Đức.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét