3 thg 1, 2025

Chử Nghĩa Làng Văn kỳ 1/1/2025 - Ngô Không Phí ngoc Hùng

 

Chữ nghĩa làng văn

 

“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.

 

***

 

Chữ nghĩa làng văn

Có người cho rằng, từ cầy có lẽ xuất phát từ chữ cẩu nhưng được đọc âm khác đi vì kiêng cữ.

Nguời Việt chỉ biết chó qua văn chương Hán học. Chữ “cẩu” đầu tiên xuất hiện trong bài thơ tả cảnh hai ông quan chửi nhau của Cao Bá Quát làm vào thời Tự Đức (1847-1883).

Các từ về chó có trong thơ văn như khuyễn mã (Kiều – Nguyễn Du). Ngòai ra Nguyễn Du có riêng bài thơ về ăn thịt chó.

 (Thịt chó là món ăn truyền thống của người Việt? - Tôn Thất Thọ)

 Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

 

Tôi có một vài người bạn

Không nhiều nhưng mà ít

 Chữ nghĩa làng văn

 

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc

Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn

 

Trước Nguyễn Công Trứ đã có câu của Nguyễn Trãi:

Biết đủ dù không gì cũng đủ

Nên lui nếu có dịp thì lui

 

Chữ là nghĩa

 Ở Quảng Bình có động Phong Nha, tôi nghĩ nó không phải “răng” của gió hay “gió” có răng...

Mà nó phiên âm từ tiếng Chàm: Phong = Phnom; Nha = ya,ea:

 (Tự điển dân gian - Chân Diện Mục *)

 * tên thật Phan Huy Viên, Gs trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ.

Bút hiệu Chân Diện Mục, tự Tây Đô cuồng sĩ

Đại hạ


Một ông phú hộ làm ngôi nhà mới, mở tiệc ăn mừng. Yên Đổ cho hai chữ Đại hạ. Đại hạ là nhà to. Nhưng thay vì viết hạ là nhà, cụ lại viết chữ hạ là mùa hè, mùa hè to là nghĩa gì?

Sau cụ mới giải thích cho người thân:

Đại hạ là hè to, hè to lái là tò he: tò he tí hỏi, là tiếng kèn đám ma
Hỏi ra thì ông phú hộ này xưa kia quả có làm 
nghề thổi kèn đám ma...

 (Chơi chữ - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc)

 Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Học ăn học nói, học gói mang về

Chơi chữ

Chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt sao cho hai lựơng ngữ nghĩa khác hẳn nhau đựơc biểu đạt bởi cùng một hình thức ngôn ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính chất chữ nghĩa. Càng làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn chương Việt Nam. 

Giả dụ như:
- Phất phất phóng phong phan, pháp phái phi phù,

phù phụng Phật

- Căng căng canh cổ kệ, ca cao kỉ cứu, cứu cùng kinh .

(Phất phất cờ phứơng bay trứơc gió, đạo pháp làm phép đốt bùa, bùa thờ Phật - Oanh oanh hòa giọng đọc kệ cổ, cất cao tiếng nghiền ngẩm kinh, nghiền ngẩm đến cùng) 

Đây là câu đố chọc ghẹo ông sư mómchú tiểu ngọng của cụ Nguyễn Khuyến. 

 Câu đối chữ

 "Ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu"

"Kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò"

 Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa

 Trong số 18 chân dung, chỉ hai người thuộc thế hệ người viết sau 1975 được đề cập, nhà văn Cao Xuân Huynhà văn Phùng Nguyễn. Tuy vậy, dù trước hay sau, tất cả đều kinh qua thời đoạn lịch sử khốc liệt của dân tộc vào nửa sau thế kỉ XX. Bởi thế, dù muốn hay không, lịch sử hiện hữu khắp nơi và bám chặt lên đời sống mọi người. Sự hiện hữu của con người và thế giới xung quanh liên kết, thắt buộc vào nhau như con ốc sên đeo dính cái vỏ của nó. Thế giới là một chiều kích bất khả cách li của con người, biến đổi, cái hiện tiền oan khiên cũng biến đổi theo. Thế giới chúng ta đang hiện hữu có bản chất lịch sử, đời sống của tất cả chúng ta mở ra theo chiều thời gian đánh dấu bằng những cột mốc biến cố và ngày tháng (30/4/1975 chẳng hạn).

Lịch sử ở đây hiện lên với bản di chúc viết tay của Nhất Linh kèm theo câu nói ngắn gọn “Nhờ Vinh giữ, khi cần Vinh đưa lại” giữa hai người sinh viên trước cửa cư xá đại học.

(Trịnh Y Thư)

Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca


Chẳng tham nhà ngói rung rinh
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười
Miệng cười em đáng mấy mươi
Chân đi đáng nén miệng cười đáng trăm
Những người con mắt lá răm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền
Tướng mặt

 Tướng Mặt

2 - Khuôn mặt chữ Viên () :

Mặt chữ Viên có hình dạng mặt tròn, các bộ vị trên mặt có dạng tròn tượng trưng sự tròn trịa nên cuộc sống luôn được hài hòa. Đây là những người đôn hậu, thật thà, trọng tín nghĩa. Nhưng họ cũng dễ dàng mất đi chủ kiến, tính khí hơi thất thường.

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 lềnlền trời  → không viết: nền”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Không rõ “lền trời” đây nghĩa là gì. Nếu “lền” là cái được trải rộng ra và làm nổi lên những gì trên đó, thì phải viết là “nền” = nền trời.

Nếu “lền” có nghĩa là nhiều, đông; “lền trời” = đầy trời, thì phải có phụ chú để người dùng không bị nhầm lẫn (đây chỉ là phỏng đoán, vì không thấy bất cứ cuốn từ điển nào ghi nhận “lền trời”).

 (Hòang Tuấn Công)

 Gặp bác Tạ Chí Đại Trường

 Hôm trước có giới thiệu cuốn Sử Việt, đọc vài cuốn. Hôm nay cuối tuần đọc thêm một tác phẩm khác của Tạ Chí Đại Trường, cuốn Thần, Người Và Đất Việt. Sách đã được xuất bản tại Việt Nam từ năm 1989, và vừa được nxb Trí Thức tái bản lần thứ 3 năm rồi.

Trong tác phẩm này tác giả khảo sát thần linh của người Việt từ xưa đến nay. Bằng những kiến giải lí thú nhưng rất logic và thuyết phục, tác giả đã lột bỏ đi lớp áo mão rực rỡ của nhiều vị thần, hiện nguyên hình là những ông đá, ông cây ..

Khảo sát những vị nhân thần sơ khai đến các nhân thần chính danh thời cận đại, tác giả cũng chứng tỏ trong tâm thức người Việt luôn tồn tại một ông thần, dù đôi lúc bị ngụy trang ko dễ  thấy, từ đó dự báo chiều hướng phát sinh các vị thần mới trong tương lai - “Người ta chỉ có thể thay đổi chứ không thể hủy thần linh…”

***

Lần đầu tiên tôi “gặp” bác Tạ Chí Đại Trường là vào năm 1992, tại nhà thầy Trần Quốc Vượng (1). Năm ấy thầy mới đi Mỹ về. Tôi từ Sài Gòn ra ghé thăm thầy. Ngắm nghía những giá sách đầy chật nhà thầy, tôi nhận ra ngay những cuốn sách mới.

Có một cuốn mà vừa nhìn thấy tôi đã cầm lấy xem ngay bởi cái tựa sách và cả tên tác giả đều lạ. Đó là cuốn “Thần, người và đất Việt” – cuốn sách mà cho đến giờ tôi vẫn nhớ nhầm tựa sách, luôn đảo thứ tự 3 thành phần trên như “Người, đất và thần Việt” hay “Đất, thần và người Việt”… vì tôi thấy để kiểu gì cũng hay và… có lý.

Tất nhiên sau đó tôi xin phép thầy Vượng photo lại, và nó trở thành một trong số ít những cuốn sách nghiên cứu tôi rất thích.

(Nguyễn Thị Hậu)


(1) Kể từ cuối thập niên 2000, sách của Tạ Chí Đại Trường mới được chính thức in và phát hành tại Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi viết: Với tôi, ông ấy là người luôn người ngẩng cao đầu.

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 lợn: lợn nòi, lợn nái, lợn rừng…”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

  - Nếu viết “lợn nòi” thay vì “lợn lòi” là sai. Vì “lòi” trong “lợn lòi” nghĩa là thòi, lòi ra, chỉ giống lợn nanh lòi, chìa ra ngoài.

 (Hòang Tuấn Công)

 Tạ Chí Đại Trường

 


Tạ Chí Đại Trường quê gốc Bình Định. Tên của ông, Đại Trường, được ghép từ hai địa danh của tỉnh Khánh Hòa là Đại Lãnh Trường Giang (sông Cái). Năm 1964, ông tốt nghiệp cao học Sử tại Đại Học Sài Gòn rồi nhập ngũ, cấp bực cuối cùng là Đại úy.

Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 6 năm đến năm 1981. Từ 1994, ông đi định cư tại Hoa Kỳ. Sau khi nhắm không qua khỏi căn bệnh nan y, ông đã từ Mỹ về lại Việt Nam ở với người anh vào ngày 4 tháng 10 năm 2015 với ý nguyện sẽ “gửi nắm thân tàn” lại nơi quê hương.

 Tác phẩm: Thần, Người và Đất Việt, Những bài văn sử

Những bài dã sử Việt, Việt Nam nhìn từ bên trong, Một khoảng Việt Nam Cộng hòa nối dài Lịch sử nội chiến Việt Nam

 Trò chuyện cùng nhà văn Vũ Thư Hiên

 Nhà văn Vũ Thư Hiên vừa từ nước Pháp đi một vòng nước Mỹ để thăm các bạn văn và các độc giả đã từng yêu mến ông qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là tập hồi ký “Đêm giữa ban ngày”. Khi ghé Washington tuần này, ông đã dành do đài TNHK một buổi trao đổi thân tình liên quan đến vấn đề văn chương. Mời quý vị theo dõi.

 

VOA: Thính giả bên trong Việt Nam muốn biết cuộc sống hiện nay của những nhà văn như ông. Xin cho biết qua một vài điều về sinh hoat hằng ngày của ông bây giờ và các nhà văn Việt Nam ở Pháp, Mỹ hay ở hải ngoại nói chung.

VTH: Tôi nghĩ rằng lớp nhà văn già, có bao nhiêu người tôi không tính được, nhưng những người lớp tuổi trên 60, 65 thì chắc là giống tôi, vì bên này có chương tình cấp dưỡng cho người già. Còn anh em nhà văn trẻ hơn vẫn có công ăn việc làm. Có lẽ cũng là cái tốt cho họ vì môi trường hoạt động của họ sẽ rộng hơn, họ có dịp đi nước này nước khác nhiều hơn, gặp gỡ các nhà văn nước này nước khác nhiều hơn.

 

VOA: Tuy sống tại Pháp nhưng chắc là ông vẫn có dịp theo dõi tình hình văn học bên trong Việt Nam. Vậy thì ông có những nhận xét gì về tình hình văn học bên trong Việt Nam hiện nay, điển hình là “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, các bài thơ của Nhóm “Mở Miệng”, tập thơ “Dự báo phi thời tiết” của Nhóm 5 Con Ngựa Trời v.v…

VTH: Tôi cũng chăm chú theo dõi tình hình văn học trong nước, tôi thấy nó tiến chậm chạp so với các nước khác. Văn học ở các nước khác không có những điều cấm kỵ, người đọc đủ trưởng thành để tự chọn món ăn tinh thần cho mình, không cần sự khuyên nhủ của một cơ quan nào. Những hiện tượng có tiếng ồn trong văn học, thì tôi nghĩ “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” không thể coi là một tác phẩm văn học được. Đó là một tư liệu về tinh thần dấn thân của một thanh niên (1) đi theo một lý tưởng, nhưng nếu nói đó là một tác phẩm văn học thì chắc là không thể nói được. 

Còn nhóm Mở Miệng thì tôi cũng đọc thỉnh thoảng, bắt gặp những nét của những anh em trẻ. Tôi nghĩ rằng nhóm Mở Miệng còn tồn tại được vì họ nói những điều không đụng chạm lắm. 5 Con Ngựa Trời cũng thế, nó cũng chỉ phi ở những con đường không có rào cản, nếu có rào cản chắc là không phi được..

 

(1) Ghi chú của người sưu tầm: Đặng Thùy Trâm là một cô gái.

Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

rắn: rắn dọc dừa”. - rắn: rắn dọc dưa”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Không có loại rắn nào gọi là “dọc dừa”, hay “dọc dưa”, mà chỉ có “rắn sọc dưa”, còn gọi rắn rồng hay rắn hổ ngựa.

Sở dĩ gọi là “rắn sọc dưa” vì rắn có sọc chạy dọc theo thân mình, giống như sọc của quả dưa

 Hòang Tuấn Công)

 Chữ nghĩa làng văn xóm chữ

Đến đây, bạn đọc hẳn thắc mắc : tại sao một tập thơ (Chân dung nhà văn) với nội dung như thế lại được phép xuất bản? Tại sao tác giả lại chép tay rồi phóng ảnh, thay vì đánh máy, xếp chữ như thường lệ? Tại sao in tại nhà in bộ Nội Vụ, tức là bộ Công An ngày nay? Câu trả lời : đây là mưu lược của nhà xuất bản Văn Học, do Lữ Huy Nguyên điều hành và Hoàng Lại Giang đại diện phía Nam. 99 bài thơ được đánh số, không ghi rõ tên chân dung của nhà văn nào, buộc người đọc phải đoán, như một câu đố.

 

Được tướng Trần Độ ghi âm tại Vũng Tàu, nơi Xuân Sách cư ngụ. Lữ Huy Nguyên và Hoàng Lại Giang nghe được, bằng lòng xuất bản, chịu trách nhiệm và hậu quả. Nhưng để tránh khâu in ấn, đánh máy, xếp chữ, chữa bản vỗ dễ bị công an PA25 (sic – A25?) theo dõi và ngăn chặn, tác giả phải chép tay rồi chụp phim. Cuối cùng đưa cho nhà in bộ Nội Vụ là nơi ít bị công an theo dõi nhất. Thế là sách in ra và phát hành.

 

***

Thêm chuyện nhỏ về Huy Cận: chính anh đã đọc cho tôi (?) nghe bài về Hoài Thanh, một cách thích thú. Anh đọc chệch nửa câu :

Thi nhân còn một chút duyên
Chẳng gìn cho vững, lại lèn cho đau.

 

Thay vì: lại vò cho nát lại lèn cho đau. Huy Cận nhớ sai, có lẽ vì  anh liên kết với câu Kiều, đã làm nền cho thơ Xuân Sách :

Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan

 

Anh cũng có mách việc Xuân Sách vào viện thăm Hoài Thanh, do Từ Sơn con trai Hoài Thanh kể lại. Chuyện nhỏ này chứng tỏ những tác giả quyền thế, dù bị công kích, cũng có người tán thưởng những bài thơ đúng đắn và nghệ thuật.

Dù bài vịnh Huy Cận có lời ác :

Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối

 

Hiện nay, văn giới đang bàn tán nhiều về hồi ký Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải, rồi nhắc lại Di Cảo của Chế Lan Viên. Tôi không mấy quan tâm đến những tâm cảnh, quan cảnh chiếu hậu này, vì không biết đâu là phần chân thành đâu là phần biện minh. vớt vát. Nhưng tôi trân trọng Xuân Sách vì đã sáng tác tại chỗ và đúng lúc. Nó là một tài liệu văn nghệ sống đã đành, mà còn là tiếng nói của lương tri thời đại, như chữ ông đã dùng.

 

(Chân Dung Xuân Sách - Đặng Tiến)

 Tình dục trong làng văn xóm chữ

          Hà Hương phong nguyệt truyện 

(quyển tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của miền Nam)

 Trong quá trình nghiên cứu văn học quốc ngữ miền Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có một ý kiến của nhà nghiên cứu Bằng Giang trong công trình Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930 khiến chúng tôi đặc biệt lưu ý: “Còn tiểu thuyết chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1915”.

Nhà văn miền Nam Bình Nguyên Lộc trong cuộc phỏng vấn trên The Vietnam Forum số 13/1990 lúc sang Mỹ định cư cũng cho biết: "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốn Hà Hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu. Cuốn này được xuất bản vào khoảng năm 1917, và tôi tin đó cũng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên của Việt Nam”.

Thái Bạch trong “Truyền thống bất khuất của văn nghệ miền Nam” in trên Tin Văn số 12 ngày 9.6.1967 vẫn còn nhớ đến cuộc bút chiến quanh tác phẩm này. Ông Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm Sách Xưa & Nay trong Hồi ký 60 năm chơi sách cho biết có người đã từng yêu cầu ông “làm bất cứ cách nào” và mua hộ “bằng bất cứ giá nào” quyển sách này của Lê Hoằng Mưu.

(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học – Võ Văn Nhơn)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 rắt//đái rắt. → không viết: dắt”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “đái dắt” mới chuẩn: “đái dắt [bệnh] đái liên tục nhiều lần, nhưng mỗi lần đều đái rất ít”.

 (Hòang Tuấn Công)

 Một mảng văn học bị bỏ quên, bỏ qua

 Kết luận của Gs Nguyễn Văn Trung

 “Chuyện nêu lên là chuyện văn học, nhưng những vấn đề thực sự đặt ra lại không phải văn học vì đụng đến chuyện Nam Bắc. Chuyện Nam Bắc bắt nguồn từ sự kiện khác biệt giữa các miền, địa phương. Câu chuyện Nam Bắc thời nào cũng thấy, có điều khi nặng khi nhẹ, lúc công khai lúc âm ỉ thôi. Kẻ phản ứng, bị nghi ngờ là kỳ thị mà kỳ thị là một điều không tốt, nên đành phải nhẫn nhục, chịu đựng, mặc dầu vẫn ấm ức, bực bội...

 Nếu như hai bên đi đến chỗ hiểu được điều nấy: một bên nhận thức được chính mình là kẻ kỳ thị đấy, một bên hiểu rằng người gây ra kỳ thị không biết mình kỳ thị, không cố ý cố tình gì đâu, vì đây là một thái độ vô thức do những yếu tố địa lý của một hoàn cảnh sống quy định thì có thể coi như bắt đầu hiểu nhau rồi, cũng là người Việt Nam cả, nhưng sống ở Bắc thì nghĩ thế này, và sống ở Nam thì nghĩ thế kia; nếu người miền Bắc vào ở lâu trong này cũng sẽ nghĩ như người vẫn sống ở miền Nam và ngược lại. Nếu một lối nhìn do những yếu tố địa lý của mỗi vùng quy định, do tính khách quan thì có thể tìm hiểu được một cách khoa học và rút ra những quy luật. Vấn đề quan hệ giữa con người và vùng đất mới tạo ra một lối nhìn, thái độ sống có những đặc điểm khác với lối nhìn, thái độ sống của con người ở vùng đất cũ không phải là một trường hợp cá biệt chỉ thấy ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nơi khác như Mỹ châu và Âu châu, Anh và Úc, Tân Tây Lan, v…v...

 Chẳng hạn, người Âu châu thường chê người Mỹ văn hóa ấu trĩ. Người Anh chê giọng Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, chỉ giọng Luân Đôn mới là tiếng Anh chính cống mà thôi v.v…”

 (Lê Tấn Tài giới thiệu và trích dẫn)

 Bánh đúc lạc


 


 

Tất cả những thứ đó quện với nhau làm cho món bánh đúc mang một hương vị đậm đà và một cảm giác lạ miệng rất riêng biệt.

Bánh đúc lạc là món ăn thể hiện phong vị ẩm thực thanh tao, bình dị, dân dã của những người thôn quê và khi mang ra đến Hà nội nó trở thành một món quà nhẹ nhàng mà tuyệt vời thấm đẫm tình người.

Nhớ lắm, Hà Nội ơi...

(Tuệ Phong)

Chữ nghĩa…tàn lụn

 Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người. Thời gian như thước đo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, đồng thời cành báo về cái hữu hạn của nó. Cũng vậy, theo sách vở, như chữ lụn, nghĩa là hết, ta chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm hoi:

Tim lụn có nghĩa tim đèn cháy hết, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt..

Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn sử dụng những chữ cổ trên.

(Nguyễn Văn Lục)

 Chữ nghĩa làng văn

Nguyễn Bính

Năm mười ba tuổi, Nguyễn Bính làm mọi người kinh ngạc về tài thơ của mình. Năm đó, vào dịp tháng ba âm lịch, hội Phủ Giầy tỉnh Nam Định quê ông có tổ chức một cuộc thi thơ. Đề thi là Tả cảnh chọi gà trong ngày hội. Trong lúc mọi người đang loay hoay làm bài, người ta đã thấy một cậu bé con bước vào chỗ ban giám khảo đang ngồi để nộp bài. Đó chính là Nguyễn Bính.

 Bài thi của cậu bé là một bài thơ dài hơn ba trang giấy học trò. Sau khi xem xét cân nhắc, ban giám khảo quyết định chấm ngay giải nhất cho bài thơ. Và dùng loa để đọc to bài thơ lên giữa sân đình cho mọi người cùng thưởng thức.

Trong bài thơ tả cảnh chọi gà đó, ngoài sự độc đáo về mặt nghệ tác giả đã lấy hai câu ca dao "Khôn ngoan đá đáp người ngoài/Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" để đưa vào bài thơ tả cảnh chọi gà một cách đầy ý nghĩa.

 (Chú bé si tình Nguyễn Bính – Trần Đình Thu)

 Vài nét cổ truyền nghề gốm Bát Tràng

 Dụng cụ sản xuất chính của lò gốm cổ là cái bàn xoay. Bàn xoay được chôn xuống đất, người thợ ngồi, chân đạp bàn xoay, tay buông bắt từng thỏi đất, chuốt lên thành các sản phẩm.

Gốm Bát Tràng từ xa xưa đã nổi tiếng về chất men phủ, phổ biến là men màu búp dong, loại men này sắc độ trắng hơi ngả xanh hoặc xám. Đặc biệt là Bát Tràng đã có men lý, men nho, men này màu gần như màu ngọc thạch, nên được gọi là men ngọc. Riêng hai loại men rạn là rạn xương đất đen và rạn xương đất trắng có giá trị từ xưa, ngày nay đã được các nghệ nhân chế tác.

Cuối cùng là khâu nung lò. Có nhiều kiểu lò nung khác nhau phù hợp với từng loại sản phẩm: từ kiểu lò cổ truyền là lò ếch, tới lò dàn, lò bầu, lò hộp...Nguyên liệu để nung lò cũng được thay đổi theo từng giai đoạn: từ việc đốt lò bằng cỏ khô, rồi tiến tới củi. Các nghệ nhân, có người tinh tế về men, có người chuyên sâu về tạo dáng, có người lại có tài về vẽ... Những sáng tạo của lớp nghệ nhân già cùng sức trẻ của Bát Tràng đã làm nên một thế giới đa dạng, lấp lánh sắc màu từ nắm đất quê hương.

 (Phạm Phương)

 Miền đông Nam bộ

 Địa danh của vùng đất phương Nam qua các thời kỳ

 Trước đây tòan thể Miên Namphủ Gia Định do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên. Năm 1802, Gia Long lên ngôi,.đổ thành trấn Gia Định gồm 5 trấn: Phiên An trấn (Gia Định), Biên Hòa trấn, Vĩnh Thanh trấn (Vĩnh Long, An Giang), Vĩnh Tường trấn (Định Tường), và Hà Tiên trấn. Trấn Gia Định sau cải là Gia Định thành.

Năm 1832, Minh Mạng theo nhà Thanh, chia 5 trấn thành 6 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, An Giang và Hà Tiên (1). Từ đó miền Nam có tên: Nam kỳ lục tỉnh

(Nam kỳ lục tỉnh)

 Năm 1867, Phan Thanh Giản thay mặt triều đình Huế ký hiệp ước thừa nhận quyên cai trị của Pháp ba tỉnh miền đông: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường (Mỹ Tho) và Côn Lôn. Năm 1867, Pháp đánh ba tỉnh miền tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết. Từ đó Nam kỳ lục tỉnh thành lãnh địa của Pháp. Và Pháp chia 3 miền Bắc, Trung, Nam thành: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (2)

(Trần Văn Miêng)

 (1) Minh Mạng đặt tên theo câu thơ: khóai mã gia biên vĩnh định an hà (phóng nựa ra roi giữ gìn non nước). Từ đó miền Nam có tên: Nam kỳ lục tỉnh.

(2) Khi Nhật vào Việt Nam tháng 3 năm 1945, thống sứ Nhật là Nashimura đổi Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (tên của người Pháp gọi) thành Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.

 Võ Kỳ Điền với thảo mộc

 Cây bo-bo

 Sau khi Mã Viện tiến đánh Giao Chỉ tiêu diệt Hai Bà và ổn định công cuộc trị an địa phương thì có chiếu vua triệu về. Mã Viện ham ở Giao Chỉ, lấy cớ tuổi già sức yếu nên chần chờ, lần lữa...

 Mãi đến khi chiếu triệu lần thứ hai, Mã Viện mới đành tuân chỉ ban sư, quy hồi cố thổ. Trong đoàn quân rầm rộ về kinh, ngoài quân nhu quân dụng, có chở thêm ba cỗ xe chở đầy, nặng, được đậy đệm kín mít. Sau khi về triều, Mã Viện tâu trình và đệ nạp tất cả ngọc ngà châu báu, của cải chiếm được lên vua. Tưởng là yên chuyện nhè đâu có người tố cáo với Hán Vũ Đế là trong danh sách đệ nạp các chiến lợi phẩm, sao không thấy ba xe chở đầy ngọc trai mà Mã Viện bắt dân Giao Chỉ mò tìm ở biển đông ?

 Mã Viện sợ hãi tâu trình - xứ Giao Chỉ nhiều sơn lam chướng khí, hạ thần khi qua đó bất hạp thủy thổ, phong thấp thương hàn, may nhờ thầy thuốc giỏi, điều trị bằng ý dĩ, hạ thần mới được bình an. Ba xe đó không phải ngọc trai mà là ba xe ý dĩ, thần có ý lo xa, khi về tới nước nhà rồi, làm sao có được nữa, mong bệ hạ xét lại !.

Hán Vũ Đế ngẫm nghĩ hồi lâu, biết bị qua mặt, tức giận vì không tìm ra bằng chứng, bèn ra lịnh cách hết chức tước, không tịch thu gia sản mà cho về hưu. Mã Viện cũng còn may giữ được cái mạng già nhờ mấy hột bo bo Giao Chỉ.

 Tiểu sử  Võ Kỳ Điền tên thật: Võ Tấn Phước. Sinh ngày 31.10.1941 tại Dương Đông, Phú Quốc. Từ nhỏ đến lớn sống ở Bình Dương. Hiện ngụ cư tại Gia Nã Đại.

Tác phẩm Kẻ đưa đường, Pulau Bidong, Miền Đất Lạ.

 Xích lô một thủa

 Ký giả Charles Sidilaire nhắc đến Pierre Coupeaus, người đầu tiên thành lập hãng Pedi-Cab ở Phnom-Penh vào cuối thập niên 30 và khoảng cuối thập niên 40, ông thành lập hãng Pedi-Cab ở số 6 đường Marne Wharf (Bến Vân Ðồn ngày nay).

 Chính tại đây, làm ra những chiếc xe xích lô đạp với phụ tùng sên líp nhập từ Pháp quốc; và đầu thập niên 50, nơi đây cũng là đầu mối nhập cảng cả ngàn chiếc xích lô máy cùng với xe taxi Renault chạy khắp Sài Gòn-Chợ Lớn. Theo bài báo, thời điểm 1952, Sài Gòn có đến 1,800 chiếc xích lô máy. Một cạnh tranh thương trường trong ngành giao thông bùng phát vì chiếc xe không còn dùng sức đôi chân, lại chạy nhanh, giá cả bình dân so với xe taxi chỉ dành cho giới thượng lưu đương thời.



Xích lô máy giữa năm 1955

có vè to bản hơn chạy trên

đường Trần Hưng Đạo có xe

điện Sài Gòn-Chợ Lớn

 


 

Lịch sử người Hoa ở Sài Gòn 

 Nói một cách khác, người ta có thể đặt giả thuyết là, có một con kinh hay con rạch lúc đó, đột nhiên trở nên một sinh mạch quan trọng, và cần sửa sang lại hai bên bờ đê của nó. Có thể vào khoảng thời gian này  người ta đã cho đắp đê cao lên hai bờ con kênh, họ nhân đó đặt luôn tên theo âm Hán Việt là “Đề Ngạn”, đọc theo giọng Quảng Đông là “Thầy Ngồn” (Tài Ngọn) để phiên âm hai chữ Sài Gòn. Tên “Đề Ngạn” vì “đề” là “bờ đê, đắp đê phòng nước tràn vào và “ngạn” là “bờ”.

 Lý do tại sao lại có tên Sài Gòn thì giả thuyết đưa ra bởi Trương Vĩnh Ký được nhiều người cho là hợp lý, vì theo ngôn ngữ học, Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là “Thị trấn ở trong rừng”, “Prei” hay “Brai” là “rừng”, “Nokor” hay “Nagara” là “thị trấn”. Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành “Sài”, Nokor bị bỏ “no” thành “kor”, và từ “kor” thành “gòn”. Người Miên  bình dân đọc tắt Prei Nokor là Rai kor, người Việt nghe thành nghe Sài Gòn)

***

Riêng với con kênh Tàu Hũ, sau khi được đào xong năm 1819, nó mau chóng trở thành con đường huyết mạch giúp cho Chợ Lớn (lúc đó còn mang tên Sài Gòn) sau này phát triển thêm nhiều.

Trong “Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (năm 1885)”, Trương Vĩnh Ký viết : “Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là hai dãy nhà phố lớn bằng gạch gọi là Tàu Khậu để cho người Hoa từ Trung Quốc hàng năm đi ghe biển tới thuê. Họ đem hàng hoá chứa trong các phố đó, hoặc để bán sỉ, bán lẻ khi lưu trú tại Sài Gòn”.

 Theo Huỳnh Tịnh Của thì Tàu Khậu là giọng người Triều Châu phát âm từ Thổ khố, tức là khu nhà lớn bằng gạch để chứa hàng hoá, sau đọc trại ra thành Tàu Hũ. Đến đây, có lẽ chúng ta đã phân biệt được hai chữ gốc Minh Hương và gốc Hoa Kiều.

Tuy đều từ Tàu qua, nhưng đợt di dân lớn nhất do hai tổng binh Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên vào năm 1679. Theo như đã chứng minh, họ chính là những người đã đặt nền móng xây nên Chợ Lớn mà ngày đó mang tên Sài Gòn.

 Đình Minh Hương ở Trân Hưng Đạo)

 


Đó là lý do  giải thích việc đình Minh Hương tại Chợ Lớn ngày nay lại thờ thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên, và  hai ông quan thượng thư gốc Minh Hương Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh.

 

Những ngôi chùa Bắc

 

Chùa Trăm Gian

 
Chùa Trăm Gian ở Sơn Tây nằm trong địa phận của làng Tiên Lữ, huyện Hoài Đức, tỉnh Sơn Tây, còn có tên là Quảng Nghiêm Tự. Chùa được xây cất trên lưng chừng đỉnh núi Bối Kê, mang nhiều sắc thái của thời đại Lý Trần. Có nhiều huyền thoại chung quanh ngôi chùa nầy; trong đó có chuyện đức Thánh Bối (Bối tức là làng Bối Kê). 

 Tương truyền Hoà thượng Đức Minh có nhiều phép lạ. Nhiều truyền thuyết về nhân vật chân tu nầy được sách sử ghi lại như trong Lĩnh Nam Chích Quái có đoạn chép lại rằng Đức Thánh Bối có thể làm  mưa gọi gió những khi cần đến. Những truyền thuyết còn ghi lại là vào khi quân Minh sang xâm lăng nước ta, nghe nói đến ngôi chùa Tiên Lữ có vị Thánh Bối rất linh thiêng, nên đã sai quân linh phóng hoả đốt cháy ngôi chùa nầy.

 Sau khi yên định, quanh cảnh như cũ thì trên trời hiện nay một đám mây ngũ sắc, dân chúng khắp nơi lại trở vềTiên Lữ và ngôi chùa vẫn nguyên vẹn như xưa. Từ đó trở đi, dân chúng trong làng và những xã lân cậnthường đến chùa Tiên Lữ để cúng lễ, cầu nguyện. Mỗi năm đến ngày rằm tháng ba, lễ hội chùa Tiên Lữ rất trang nghiêm, đông đúc, kéo dài đến ba ngày.

 Dù ai nương náu xa gần

 Tháng ba ngày rằm trẩy hội Thánh tăng.

 Ngôi chùa Tiên Lữ đã có từ mấy thế kỷ trước, nhưng chỉ là thảo am nhỏ, được dựng lên từ năm 1185 vào thời vua Lý Cao Tông (theo Nguyễn Văn Tố). Chùa được dựng lên trên đỉnh núi Mã có cao độ 56 thước. Chung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ, cành lá sum suê khiến cho cảnh chùa càng thêm trang nghiêm u tịch.

(Kiêm Thêm)

 Chữ là nghĩa

 Nghe các sử gia Pháp phụ họa theo các sử gia Tàu nói rằng thuở ấy ta còn theo chế độ mẫu hệ, các nhà học giả ta giãy nảy lên và phủ nhận, viện bằng chứng rằng ta đã có vua đàn ông là Hùng Vương. Nhưng Hùng Vương không chắc lắm là đàn ông, hơn thế một dân tộc theo chế độ mẫu hệ vẫn có vua đàn ông như thường, bằng chứng là dân tộc Chàm. Nếu vua họ là đàn bà thì ai cưới Huyền Trân Công chúa của ta?

 Chứng tích "Vua đàn ông" hãy xem danh từ Cha.

Ta có thể nào tân tạo danh từ Cha, sau khi tiếp xúc với nhà Hán hay chăng? Có thể, nhưng lại không.

Thường thì khi một dân tộc vay mượn một món đồ, một ý niệm, họ vay mượn luôn danh từ trong ngôn ngữ của dân tộc cho vay. Thí dụ ta vay mượn cái xà rông của dân Mã Lai thì vay luôn danh từ xà rông.

 Người miền Nam vay mượn một thứ bánh của người Chàm thì họ vay mượn luôn tên bánh, chỉ có một chút thay đổi là thay vì dùng tiếng Chàm, họ dịch sát nghĩa ra tiếng ta. Người Chàm gọi bánh đó là bánh Gan con Tây (tức con Tê ngưu), ta cũng dịch y nguyên là bánh Gan con Tây. (Sau này, vì luật lười biếng, người miền Nam nói tắt là Bánh Gan.)

 Sự tân tạo chỉ để dành cho sáng tạo, cho phát minh riêng của dân tộc. Người Trung Hoa thường tránh mượn tiếng nước khác, nhưng vẫn phải phiên âm nhiều món như Cà- phê, Quan-thoại đọc là Khá fi, Quảng đông đọc là Cafế.

 (Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)

 Sinh phần

 Người xưa nói rằng:

"Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư".

 Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay, có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp. Vì vậy cac cụ ta xừ xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ).

 Thành ngữ tục ngữ…sai

 Những giải thích sai, hoặc không giải thích nghĩa đen, ghi sai, ghi nhầm, hiểu sai hoàn toàn ý nghĩa thành ngữ tục ngữ trong “Tự điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam ” của Nguyễn Lân.

 Điệu hổ ly sơn 

Nghĩa đen: Đưa hổ xa núi. Tìm cách đưa kẻ ác đi xa mình để nó không thể quấy rầy mình được.

 

Giải thích chưa đúng, chưa đủ nghĩa. Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm. Rừng núi là lãnh địa của chúng. Do đó, muốn tiêu diệt được hổ phải tìm cách dụ chúng ra khỏi hang ổ hoặc nơi nó phát huy được thế mạnh. Đây là một mưu kế làm suy yếu đối phương trong “Tam thập lục kế”. Ví như dụ giặc ra khỏi thành trì kiên cố để dễ bề tiêu diệt, chính là kế “điệu hổ ly sơn”. 

 

(Hoàng Tuấn Công)

 Văn hóa dân gian

Rồi diện mạo của nó thế nào?
Một chàng trai hỏỉ:
Cô kia, cô kỉa, cô kìa
Người cô thế ấy,…cái kia thế nào”

Đã được phía bên kia trả lời:
Nó xình, nó xỉnh, nó xinh

Nó cũng như mình, nó đã có…ria” 

 Đám ma Lý Toét 

 Tuy vậy, họ biết thừa là ông Lý sắp chết. Lang Băm đã bảo ông Lý khó qua được đêm nay. Chiều nào Băm cũng cả quyết như vậy mà ông Lý vẫn dai dẳng sống hơn một tuần lễ rồi. Có người độc miệng mỉa mai: “Đã chết được kia à? Còn là khổ! Lúc giữ triện đồng, đục khóet lắm, bây giờ khó lòng mà nhắm được mắt.”

Họ đã sửa soạn cả. Nhiêu Còm đã mở chiếc hòm mục lấy cái áo the cũ bạc vai, vá khuỷu tay, sắp sửa để đi đưa ma ông Lý và đánh chén. Bọn trẻ con cũng vui vẻ; chúng thấy trong xóm có sự lạ, và như chúng ngửi thấy mùi xôi thịt. Bác Ngọ, bán hàng sũ ở đầu xóm, đã sắp sẵn một cỗ ván tốt, và nhấm nháy Xã Xệ, để ông Xã khỏi mua hàng của bác Mùi, dưới cuối xóm. Xã Xệ ngắm nghía cỗ ván, vuốt chiếc tóc trên đầu, hoặc gãi vào cái bướu gần thái dương, trả lời viển vông: “Được, để tôi hỏi bà Lý xem”. Rồi đến lượt Khán Thân làm hàng mã, Nhiêu Tuất bán hàng vải. Xã Xệ thấy ai cũng tử tế, cũng có ý ngầm mời đánh chén. Mọi khi bọn này, mỗi khi chàng đi qua, thường chỉ lên đầu cười rúc rích, hoặc nói cạnh đến cái tóc. Mấy hôm nay, mỗi lần về nhà, Xã Xệ thường phàn nàn với vợ: “Bác Lý ốm, thành mình cũng vất vả lây”. Bác Xã gái an ủi chồng, giục sang nhà Lý Toét. Vợ Xã Xệ muốn tống chồng đi cho khỏi tốn rượu. Mà Xã Xệ cũng chẳng muốn ở nhà.

 (Đỗ Đức Thu)

 Tuyệt cú mèo

 Tại sao lại nói “tuyệt cú mèo”

Xin thưa khi muốn diền tả  một chuyệ hay thật hay, ta thường nói hay…“tuyệt cú mèo”.

Đầu tiên chỉ là tuyệt. Nhưng tuyệt không thôi nghe cụt lủn. Sằn có thể thơ 4 câu, 3 vần xuất sứ từ Trung Hoa là “tuyệt cú”, người ta cho chữ…“cú” đi sau.

 Nhưng sau cú là gì, cú thì có dăm ba giống: cú vọ, cú đốm, cú mèo. Hai giống trước dùng tới hai âm trắc. Thôi thì bỏ con mèo vào thành hay “tuyệt cú mèo” vậy.

 (Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)

Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ

 Dưới đây là trích đoạn bài viết bênh vực Lưu Trọng Lư của nhà thơ Trần Đăng Khoa:

[Trích đoạn]  

Thật là oan cho Lưu Trọng Lư. Ông đã mất lâu rồi, nên không thể thanh minh được.

………

Cái hay của Tiếng thu, tôi đã bàn trong bài viết Lưu Trọng Lư và bài thơ Tiếng thu rồi. Ở đây, xin phép không nói lại. Ta chỉ lưu tâm đến cái nghi án của bài thơ này thôi. Có thật Lưu Trọng Lư sao chép bài thơ đó của Nhật Bản không?

Người đầu tiên vu cho Lưu Trọng Lư cái việc làm rất không lấy gì làm đẹp này là ông Nguyễn Vỹ trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến. Cứ như ông Nguyễn Vỹ thì Tiếng thu chính là bài Tanka của thi sĩ Nhật Bản nổi tiếng Sarumaru ở thế kỉ VIII. Nguyên văn bài Tanka thế này:

Oku yama ni

Monoji fumi wake

Naku shika no

Koe kiku zo

Aki wa kanashiki

 (Trần Đăng Khoa)

 


Tiểu sử : Trần Đăng Khoa s
inh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện ở Hà Nội.
Tác phẩm: Chân dung và đối thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay

 


***

 Phụ đính I

 40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn

Tổng hợp từ nhiều nguồn)


Cao Xuân Huy 
(1947-2010)

Cao Xuân Huy sinh tháng 9 năm 1947, quê nội ở Bắc Ninh, quê ngoại ở Hà Nam. Sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, gia đình ông cũng bị chia ly. Thân phụ ông theo kháng chiến, trở về Hà Nội, chị ông không vô Nam, ở lại với bố. Còn ông thì theo mẹ di cư vào Nam.

Ông nhập ngũ năm 1968, là cựu Trung úy Ðại Ðội Phó ÐÐ 4 thuộc Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm. Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ một năm sau đó.

 Năm 1985, ông in cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng”, là cuốn hồi ký được viết năm 1985, ghi chép lại những diễn biến của mặt trận Thừa Thiên- Huế cho đến khi tác giả bị bắt làm tù binh. Cuốn sách đã được tái bản đến 10 lần.

Năm 2005, nhà văn Cao Xuân Huy làm chủ biên tạp chí Văn Học (kế tục vai trò của nhà văn Nguyễn Mộng Giác) đến tháng 4 năm 2008 Văn Học phát hành số 236 thì đình bản vì lý do ông bị ung thư mắt, sức khỏe suy yếu nên không thể chăm lo cho tờ báo.

 Ngày 12-11-2010 nhà văn Cao Xuân Huy từ trần sau một thời gian dài bệnh nặng. Bốn tháng trước khi qua đời, ông cho ra mắt cuốn “Vài mẩu chuyện” do tạp chí Văn Học xuất bả