Đức nhân trong chương 18 Vi Tử & chương 19 Tử Trương
Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng
Phàm lệ
– Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.
– Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.
– Các hạng mục khác là của người dịch.
CHƯƠNG 18 VI TỬ
Bài 18.1 Nhà Ân có 3 người có đức nhân: Vi tử, Cơ tử và Tỉ Can vì họ muốn tránh đau khổ cho dân.
Vi tử khứ chi, Cơ tử vi chi nô, Tỉ Can gián nhi tử. Khổng tử viết:“Ân hữu tam nhân yên.”
微子去之,箕子為之奴,比干諫而死。孔子曰:殷有三仁焉!
Dịch
Vi tử bỏ đi. Cơ tử phải làm nô lệ, Tỉ Can chết vì can vua (Trụ). Khổng Tử nói: “Nhà Ân có ba ông ấy là người nhân.”
Chú thích
1) “Vi tử … gián nhi tử.” “Vi” và “Cơ” là tên của 2 quốc gia (Vi hiện nay là tỉnh Sơn Tây, đông bắc thành phố Trường Trị của Trung Quốc, Cơ là bắc Triều Tiên). Tử là chỉ tước vị (đệ tứ đẳng, hàng thứ 4). Vi tử là anh của Trụ vương, con của người thiếp. Vi tử và Tỉ Can là anh em của cha Trụ vương nhà Ân. Vi tử thấy việc làm của Trụ vương không đúng đạo lý nên sớm xa cách Trụ vương. Cơ tử giả người điên làm nô bộc để tránh trách nhiệm cùng một dòng tộc với Trụ vương. Tỉ Can do khuyên can nên bị Trụ vương giết chết.
2) “Khổng tử …nhân yên.” Tất cả 3 người đều hết lòng với vua, lo cho quốc gia nên tự bản thân họ không làm điều gì để bị nghi kỵ do đó phu tử cho họ là người có đức nhân (nhân giả).
Giải thích
Nhân là thực đức. Do đó đức nhân là chí thành, không phải giả tạo chỉ có ở bên ngoài, là chí chánh, không có thiên lệch, tất cả đều xuất phát từ lòng trắc ẩn (không nỡ bỏ qua) và lòng từ ái. Cả 3 người đều hành động hợp với đạo lý của đức nhân. Xa cách vua là hợp đạo lý nên xa cách (trường hợp của Vi tử). Trở thành nô bộc là hợp với đạo lý nên làm nô bộc (trường hợp của Cơ tử). Chết là hợp đạo lý nên chết (trường hợp của Tỉ Can). Tất cả các việc làm này đều chí thành, đều xuất phát từ chí thành trắc đát (trắc đát: thương xót) làm người ta đau xót, đỗ lệ.
Tuy nhiên, việc xa cách vua giống như không còn nghĩ đến vua, việc trở thành nô bộc giống như làm khổ nhục thân. Do đó, phu tử nghĩ đến tận đáy sâu lòng của họ nên quyết định chung “Nhà Ân có 3 người có đức nhân” (ý nói tuy Vi tử và Cơ tử không chết như Tỉ Can nhưng tâm không khác với Tỉ Can) để nói lên cho người đời biết lòng thành thật thuần túy (tinh thành) của Vi tử và Cơ tử. Việc này tương tự với ý nghĩa trong câu nói của Mạnh tử “Đạo của ông Vũ (vua sáng lập nhà Hạ), ông Tắc (tổ khai lập nhà Chu) và Nhan Hồi đều như nhau” (bài 29 Chương 8 Ly Lâu hạ). Từ sự việc này chúng ta có thể hiểu rằng việc thực hiện đức nhân không kể đến hình thức xa gần.
Nhận xét
1) Sau khi đọc xong các nội dung của Khổng tử bình phẩm các đệ tử của ông (Bài 5.4, 5.7), Tử Văn, Thôi tử (Bài 5.18) và Quản Trọng (Bài 14.18) có đức nhân hay không thì người biên dịch hiểu phu tử cho rằng người đem lợi ích cho nhiều người là người có đức nhân, do đó mới đầu không hiểu tại sao phu tử cho 3 người trong bài này có đức nhân. Tuy nhiên sau khi suy nghĩ kỹ mới hiểu ra lý do. Số là Vi tử, Cơ tử và Tỉ Can với thân phận của họ và việc làm ác của Trụ vương thì 3 ông có thể đứng lên vận động chư hầu diệt Trụ cứu dân. Tuy nhiên, cùng là vương tộc nhà Ân lại làm phản là không hợp nghĩa, hơn nữa chưa chắc đã thành công mà lại làm khổ đau dân chúng, bởi vì phải chờ đến Văn vương và Võ vương mới thành công công việc phạt Trụ. Do đó, người viết nghĩ rằng việc 3 ông không nghĩ đến lợi ích của bản thân mà nghĩ đến hạnh phúc của số đông dân chúng nên phu tử kết luận 3 ông là người có đức nhân.
2) “Chí thành trắc đát tức thị nhân” (Đức nhân là lòng hết sức chân thành đối với cấp trên và lòng biết thương yêu cấp dưới) là câu của Yamada Hôkoku山田方谷(1805~1877) tặng cho Kawai Tsuginosuke河井継之助 (1827~1868) khi người này đến nhận ông làm thầy. Câu này được nhiều trí thức Nhật Bản xem trọng. Từ “chí thành trắc đát” xuất hiện trong Luận Ngữ Tập Chú của Chu Hy khi giải thích Bài 18.1 và Jinsai cũng dùng từ này trong phần giải thích. Thường được cho rằng từ này bắt đầu từ từ “Chân thành trắc đát” trong quyển trung của “Truyền Tập Lục” của Vương Dương Minh khi ông giảng tác dụng của lương tri.
CHƯƠNG 19 TỬ TRƯƠNG
Bài 19.6 Quyết chí học, học rộng, quan tâm và chịu khó tìm hiểu kỹ lưỡng các vấn đề gần gũi trong cuộc sống thì sẽ được đức nhân.
Tử Hạ viết:“Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hỹ.”
子夏曰:博學而篤志,切問而近思,仁在其中矣。
Dịch
Tử Hạ nói: “Học rộng mà vẫn giữ chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc gần (việc thực hành những điều đó), đạo nhân ở trong đó.
Giải thích
Nếu như chịu khó học rộng thì khi xem xét nghiên cứu vấn đề sẽ biết thận trọng không để sai lầm. Nếu như biết quyết chí vào việc học thì niềm tin đối với việc học là thật sự chớ không phải chỉ là hình thức bên ngoài. Nếu như hỏi tường tận điều chưa hiểu thì không sợ có điều chưa chắc chắn hoặc nghi ngờ. Nếu như biết suy nghĩ kỹ lưỡng sâu đậm những vấn đề gần gũi thì tránh được tệ hại để tâm đến những việc cao xa viển vông.
Trong khi học nếu biết lưu ý đầy đủ các điều nói trên, dù không có đầy đủ được đức nhân thì cũng không làm việc cẩu thả và hành động (sống) với bản thân thật sự của chính mình. Do đó Tử Hạ nói “Đức nhân có ở trong đó”.
Nhận xét
(1) Nếu như: 1) Học rộng, 2) Quyết chí, quyết lòng học, 3) Quan tâm tìm hiểu học hỏi điều gần gũi trong cuộc sống (học thực dụng) thì sớm muộn sẽ biết được đức nhân là gì, nếu không cũng biết được cách sống thật sự thích hợp với cá tính của bản thân.
Bài 19.15 Được người khác thừa nhận có đức nhân không phải dễ. Có đức dễ hơn việc hiểu rõ đạo.
Tử Du viết:“Ngô hữu Trương dã, vi nan năng dã, nhiên nhi vị nhân.”
Tăng Tử viết:“Đường đường hồ Trương dã. Nan dữ tịnh vi nhân hỹ.”
子游曰:吾友張也,為難能也,然而未仁。
曾子曰:堂堂乎張也!難與並為仁矣。
Ghi chú: Trong sách của Nguyễn Hiến Lê và Luận Ngữ Tập Chú, câu Tăng tử nói được sắp thành bài 19.16. Luận Ngữ Trưng của Ogyu Sorai thì giống như Luận Ngữ Cổ Nghĩa.
Dịch
Tử Du nói: “Bạn tôi là Tử Trương (đức đã cao) khó mà giữ được như anh ấy, nhưng chưa phải là bậc nhân”.
Tăng tử nói: “Tử Trương thật có vẻ đàng hoàng, nhưng khó làm chung việc nhân với anh ấy được.”
Chú thích
1) “Vi nan năng dã”: là lời khen không thể hành động được bằng mức độ của Tử Trương.
2) “Nhiên nhi vị nhân” : không thừa nhận có đức nhân ở Tử Trương.
3) “Đường đường”: dung mạo đầy khí thế.
Giải thích
Người để tâm trang sức hoặc lo gìn giữ ngoại hình bên ngoài thì tự mình cao ngạo và tất nhiên bên trong có chỗ không thành thật. Do đó Tăng tử nói nếu là nhân vật như vậy thì không có khả năng giúp người khác thực hiện đức nhân và cũng không có khả năng nương tựa vào đức nhân của người khác để thực hiện đức nhân của bản thân. Tăng tử đánh giá dung mạo của Tử Trương đường đường là than tiếc cho Tử Trương chứ không phải khen ngợi.
Tử Du nói hành động việc làm của Tử Trương khó thực hiện, Tăng tử tán thưởng dung mạo Tử Trương đường đường, cả 2 đều là lời khen nhưng cả 2 lại không thừa nhận Tử Trương có đức nhân.
Từ nội dung này cho chúng ta thấy như sau. Đặt cao mục tiêu của hành động là việc dễ dàng nhưng để hành động việc làm cụ thể có thực chất đạo đức là việc khó khăn, không phải ai cũng dễ đạt được mà phải tùy theo người.
Dễ gặp người biết nhiều sách vở nhưng khó gặp người hiểu rõ đạo thánh nhân. Người hiểu đạo dễ có chứ người có đức khó có. Nếu không phải là người thật sự hiểu đạo thì khó tiếp tục gìn giữ đức nghĩa (quan hệ đúng đắn trên mặt đạo đức con người) lâu dài với họ. Nếu là người không có đức thì khó lòng cùng với họ thực hiện đức nhân để có ảnh hưởng đến người khác. Đó là lý do mà Tử Du và Tăng tử không thừa nhận Tử Trương đã có được đức nhân. Các Nho gia đời sau căn cứ vào lời của 2 vị này mà nghị luận buông tuồng không biết kiềm chế về Tử Trương là việc sai lầm.
Nhận xét
1) Trong Giải thích của Jinsai, ban đầu khi nói về đánh giá Tử Trương đường đường của Tăng tử, ông cho là lời than tiếc chứ không phải là lời khen nhưng sau đó lại nói là lời tán thưởng. Thật là mâu thuẫn, người dịch không hiểu tại sao. (Người dịch đã xác nhận lại nguyên văn thì thấy đúng như vậy!)
Trong phần cuối giải thích, Jinsai lại phê phán “Nho gia đời sau nghị luận buông tuồng về Tử Trương” nhưng không nói cụ thể nội dung và lý do sai lầm! Dĩ nhiên dù Tử Trương chưa có được đức nhân nhưng cũng có điểm hay để học hỏi. Ý của Jinsai là như vậy chăng?
2) Đặc điểm của chương 19 Tử Trương này là hầu như ghi lại các lời nói của các đệ tử của Khổng tử. Lời của Tử Hạ nhiều nhất: 11 bài, của Tử Cống: 5 bài, của Tăng Sâm: 4 bài và của Tử Trương: 3 bài (tính theo cách chia số bài của sách cụ Lê).
3) Giải thích bài này của Jinsai nhắc nhở chúng ta: biết dễ làm khó. Người học được, hiểu được điều hay chưa chắc đã chịu thực hành. Thực hành nhưng chưa chắc thực hiện đúng và liên tục để thành thói quen!
4) Nội dung biên dịch của cụ Lê “Bạn tôi là Tử Trương (đức đã cao) khó mà giữ được như anh ấy” khác với giải thích của Jinsai! Giải thích của Jinsai gần giống như của Chu Hy.
5) Người dịch rất ngạc nhiên khi thấy Ogyu Sorai chú giải bài này với nội dung khá dài hơn rất nhiều bài khác trong Luận Ngữ Trưng của ông, và nội dung rất đáng tham khảo nên biên dịch lại dưới đây để giới thiệu quý độc giả.
Bài 19.15 trong Luận Ngữ Trưng
Tử Trương tài năng kiến thức cao minh, học giỏi, làm những việc người thường khó làm được. Tuy nhiên, đối với đức nhân thì chưa thành đạt tốt. Do đó, Tử Du nói “năng nan”. Còn “vị nhân” thì cũng như trong bài 4 chương 5 Công Dã Tràng, Khổng tử nói Trọng Cung chưa đạt được đức nhân (chính xác là phu tử nói không biết Trọng Cung có đức nhân hay không). Người đời sau căn cứ vào lời này của Tử Du mà chê bai, xem nhẹ Tử Trương là điều sai lầm.
Có thể việc làm việc mà người thường khó làm được của Tử Trương giống như việc Tử Cống làm nhà ở bên mộ Khổng tử đến 6 năm rồi mới rời đi trong khi các đệ tứ khác chỉ để tang trong 3 năm. Trong Luận Ngữ Tập Chú, Chu tử (tức Chu Hy) chú giải “Ý thành thật trắc ẩn (của Tử Trương) ít”. Có ý thành thật trắc ẩn mà cũng không đủ để lấy đó làm đức nhân sao?
“Đường đường hồ Trương” cũng là để nói việc uy nghi hưng thịnh, quy mô to rộng minh bạch và khó thực hiện, giống như câu “Đường đường hồ Trương, Kinh Triệu Đường Lang ” (trong Tập 1 của Tam Phụ Quyết Lục三輔決録 của Triệu Kỳ趙岐) cũng là ý nói uy nghi hưng thịnh.
(Trong thiên 6 Phi Thập Nhị Tử sách Tuân Tử) viết “Các tiện Nho của môn phái Tử Trương thì đội mũ không chỉnh tề, biện luận thì nội dung không có, chỉ bắt chước theo hình thức như cách đi cách chạy của vua Nghiêu vua Thuấn. Nội dung này chê bai những người thời cuối cùng của học phái Tử Trương. Cần phải theo dòng mà truy tìm nguồn gốc thì mới biết được con người của Tử Trương. Nội dung tác giả muốn nói trong “Nan dữ tịnh vi nhân” là “nếu bảo ta (tức Tăng Sâm) thực hiện nhân chính (chính trị vì dân) trong quốc gia ở bên cạnh nước của Tử Trương thì chắc chắn ta không bằng.” Xem ra người mà Tăng Sâm kính sợ không phải chỉ có Tử Lộ (như được đề cập trong bài 1 chương 3 Công Tôn Sửu thượng của sách Mạnh Tử) (mà còn có Tử Trương)
Nghĩa của “nhiên nhi vị nhân” và “vi nhân” không giống như nhau. Xem những câu trả lời của Khổng tử về đức nhân của các đệ tử của ông, chúng ta thấy chỉ có đối với Nhan Hồi và Tử Trương thì phu tử mới đem việc thiên hạ ra nói. Từ điều này chúng ta nên hiểu tài năng của 2 người này to lớn. Tuy nhiên nếu đem việc lúc nào thật sự cũng luôn trung thực mà Khổng tử đã từng quy định để phán đoán đánh giá đức nhân thì rõ ràng Tử Trương chưa đạt được.
Tống Nho có khuynh hướng tìm đức nhân ở mặt nội tâm. Do đó xem uy nghi là tổ tích (dấu tích của bậc đi trước) của Khổng học và cho rằng Tử Trương chuyên để tâm ở ngoại hình, do đó nói Tử Trương chưa đạt được đức nhân.
Ngoài ra, (trong bài 17 chương 11 Tiên Tiến,) Chu Hy chú giải “tích” trong “Sư dã tích師也辟”(Sư là tên của Tử Trương) là “biện tích便辟”(nghĩa là hành vi việc làm nổi bậc được người chú ý nhưng ít thành thật). Việc uy nghi hưng thịnh tại sao lại gọi là biện tích? (ý chê Chu Hy).
Sách Trung Dung (trong chương 20) viết “Trai minh, thịnh phục, phi lễ bất động, sở dĩ tu thân dã (Giữ chay thanh khiết, ăn mặc chỉnh tề, không hợp với lễ thì không làm, cốt để sửa đổi chính mình)”. Lời này có ở đầu của Cửu Kinh. Tại sao lại cho là không phải “căn bản để thực hiện đức nhân”? Tại sao phong cách “đường đường” của Tử Trương lại cho là căn bệnh? Phần lớn các hậu Nho không hiểu rõ ý nghĩa của “vi nhân”! Đó là nguyên nhân gây ra sai lầm này.
Vào thời xưa, trong việc giảng dạy, người thầy tùy theo bản tính, năng khiếu của trò mà hướng dẫn. Tuy nhiên, các thầy dạy đạo học đời sau lập ra môn phái riêng cùng với tôn chỉ (mục tiêu chính yếu) riêng và lấy quan điểm, sở kiến của mình cưỡng ép các nhân tài của Khổng môn. Không biết họ lấy gì mà tự cho mình cao cả đến mức tước đoạt quyền của Khổng tử. Thật hỡi ôi!
Jinsai khi bàn về ý nghĩa của bài này nói “Người hiểu đạo dễ có chứ người có đức khó có.” Ông không biết “Cẩu bất chí đức, chí đạo bất ngưng yên” (Nếu chẳng có bậc có đức hạnh thật tối cao thì không tập hợp được đạo tối cao) (trong chương 27 sách Trung Dung). Ôi việc hiểu được đạo thật khó đến dường nào, nếu không phải là Khổng tử thì câu này không đủ để đúng. Nhưng (trong bài 2 chương 5 Công Dã Tràng) viết: “Quân tử tai nhược nhân! (Quân tử thay, con người như thế (tức Tử Tiện)!, Khổng tử khen Tử Tiện, đệ tử của ông), nghĩa là con người như Tử Tiện cũng đủ gọi là có đức. (Ý của Ogyu Sorai phản đối ý của Jinsai, việc có đức dễ hơn việc hiểu đạo thấu đáo.)
Nhận xét
(1) Nhờ tra cứu các nguyên văn trích trong bài này của Sorai, người dịch lần đầu biết được sách Tuân Tử rất đáng tham khảo và nghiên cứu.
(2) Phải thán phục học rộng và tài tổng hợp kiến thức trong các sách mà Sorai đã đọc qua.
Nguyễn Sơn Hùng, 25/5/2025
29/5/2025 xong thêm phần dịch của Luận Ngữ Trưng
Trở về trang chủ
Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng
Tài liệu tham khảo
1) Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
2) Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
3) Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.
4) Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2014), Heibonsha.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét