Truyện ngắn được chuyển ngữ dưới đây, The Enormous Radio, xuất hiện lần đầu tiên vào tháng Năm, 1947 trên “The New Yorker”. Trong tuyển tập sách thu âm “The John Cheever Audio Collection” do Caedmon xuất bản vào năm 2004, truyện ngắn này được diễn đọc qua giọng của nữ tài tử gạo cội Meryl Streep.
Jim và Irene Westcott là mẫu người toát ra sự mãn nguyện với mọi thứ ở mức trung bình: tiền bạc, nỗ lực, sự khả kính, dựa theo tường trình thống kê trên các bản tin của hội cựu sinh viên đại học. Họ được hai mụn con, lấy nhau đã chín năm, sống trên tầng thứ 12 của một chung cư gần khu Sutton Place[1], họ đi xem hát mỗi năm trung bình 10,3 lần, và họ ao ước có ngày sẽ được cư ngụ ở vùng Westchester[2]. Irene Wescott là một phụ nữ giản dị, vui tính với mái tóc nâu mềm mại, vầng trán tươi rộng mà trên đó chưa hề có điều gì được ghi lại. Vào mùa lạnh, cô thường mặc cái áo khoác lông được nhuộm cho trông giống lông chồn. Tuy không thể nói Jim Westcott nhìn trẻ hơn tuổi, ít nhất cũng có vẻ như anh cảm thấy mình vẫn phong độ. Tóc anh cắt ngắn, đang chớm bạc. Anh ăn mặc như thời còn đi học ở Andover[3], phong thái trang nghiêm, sôi nổi và ưa làm ra vẻ ngây thơ. Hai vợ chồng chỉ khác với bạn bè, đồng môn và hàng xóm về lòng say mê âm nhạc chính thống mà họ cùng san sẻ. Họ đi nghe hoà nhạc khá nhiều–tuy hiếm khi họ nói về điều này với ai–và họ thường ngồi hàng giờ để nghe nhạc trên radio.
Cái radio của họ đã cũ lắm rồi, hay trục trặc, nay thế này mai thế nọ, có sửa cũng không bõ. Hai vợ chồng chẳng ai hiểu biết gì về kỹ thuật radio–hay bất cứ thứ máy móc gì họ đang dùng trong nhà–khi cái radio trở chứng, Jim thường lấy tay vỗ vào bên hông cái máy. Làm như thế đôi lúc cũng được việc. Vào một buổi chiều Chủ Nhật, đang giữa phần tứ tấu một tác phẩm của Schubert[4], tiếng nhạc bỗng tắt ngúm. Jim vỗ vỗ vào cái máy, nhưng nó vẫn trơ trơ; vậy là chẳng còn Schubert Schu-biếc gì nữa cả. Anh hứa với Irene sẽ mua cho cô một cái radio khác. Sang ngày thứ Hai, khi đi làm về, anh báo cho cô biết rằng anh đã mua cái máy mới. Anh không chịu tả cho cô biết nó ra làm sao, bảo rằng đó sẽ là một ngạc nhiên cho cô khi người ta giao nó đến.
Trưa hôm sau, cái radio được giao đến tận cửa nhà bếp. Irene mở thùng ra, cùng với sự tiếp sức của người tớ gái và người giao hàng, cô mang cái máy phát thanh lên phòng khách. Ngay lập tức, cô sững sờ vì vẻ thô kệch của cái khối to sừng sững làm bằng gỗ bạch đàn đó. Irene vốn rất tự hào về căn phòng khách của mình. Cô đã chọn bàn ghế và màu sắc cho căn phòng cẩn thận chẳng khác gì lúc cô sắm quần áo cho mình. Vậy mà bây giờ cô thấy cái radio mới mua nằm giữa những đồ vật yêu quý của cô như một kẻ xâm lược hung hăng. Cô choáng váng nhìn không biết cơ man nào là những nút vặn và nút bật lên xuống trên mặt cái máy. Cô xem xét chúng thật kỹ càng trước khi cắm dây vào ổ điện trên tường rồi bật máy lên. Các nút vặn chợt bừng lên một làn ánh sáng xanh lục đầy vẻ hăm doạ, và cô nghe văng vẳng tiếng nhạc của một bài ngũ tấu dương cầm. Bản nhạc còn nghe nho nhỏ trong một khoảnh khắc; đoạn nó phủ choàng lấy toàn thân cô, nhanh như tốc độ của ánh sáng, tràn ngập khắp căn nhà, to và mạnh đến nỗi hất nhào một bức tượng bằng sứ từ trên bàn xuống sàn nhà. Cô vội vã chồm tới cái máy để vặn nhỏ âm thanh lại. Sức mạnh thô bạo nhốt trong cái thùng bằng gỗ bạch đàn đó khiến cô hết sức khó chịu. Hai đứa con vừa đi học về, cô phải dẫn chúng ra ngay ngoài công viên. Mãi đến chiều cô mới đủ can đảm quay lại với cái radio.
Lúc người tớ gái cho bọn nhỏ ăn bữa chiều và trông cho chúng tắm, Irene vặn radio lên, điều chỉnh âm thanh vừa nghe, và ngồi xuống thưởng thức một bài ngũ tấu của Mozart[5] mà cô quen thuộc và rất thích. Lần này tiếng nhạc nghe thật rõ ràng. Cô nghĩ thầm, cái máy phát thanh mới có âm điệu thanh và trong hơn cái cũ nhiều. Cô phải thừa nhận rằng âm nhạc là điều rất quan trọng và cô có thể giấu cái máy sau chiếc sofa. Nhưng vừa khi cô đã dàn hoà với cái radio, nó bắt đầu bị nhiễu sóng. Có tiếng lách tách như tiếng cầu chì bị cháy đi kèm theo tiếng đàn đang réo rắt. Đằng sau tiếng nhạc là một âm thanh rạt rào gợi cho Irene tiếng biển cả, một cách khó chịu, và khúc ngũ tấu càng kéo dài bao nhiêu thì càng có thêm đủ loại âm thanh khác chen vào. Cô thử vặn qua vặn lại, bật lên bật xuống đủ các thứ nút nhưng chẳng có cái nào làm giảm được các âm thanh nhiễu loạn. Cô ngồi thừ ra, thất vọng và hoang mang, thử lần theo tiếng nhạc. Cái thang máy trong toà nhà của cô chạy gần bức tường của phòng khách, và tiếng ồn thang máy khiến cô khám phá ra vì đâu mà cái radio bị nhiễu âm. Tiếng sột soạt của dây cáp thang máy, tiếng cửa đóng mở, cô đều nghe được qua cái loa của máy phát thanh. Cô chợt hiểu ra rằng cái radio rất nhạy với đủ loại luồng điện. Lẫn vào bài nhạc của Mozart, cô bắt đầu phân biệt được tiếng chuông điện thoại reo, tiếng quay số điện thoại và tiếng rè rè của một cái máy hút bụi. Càng để ý nghe kỹ, cô càng nghe thêm được tiếng chuông cửa, chuông thang máy, tiếng máy cạo râu, tiếng máy xay hiệu Waring… Tất cả những thứ âm thanh đó đến từ các căn chung cư chung quanh và được cái loa radio của cô truyền ra. Cái máy mạnh bạo và xấu xí đó, cùng với độ nhạy không đúng chỗ của nó thật khó chịu, đã vượt quá tầm hiểu biết của cô. Cuối cùng cô phải tắt nó đi và vào phòng xem chừng lũ nhỏ.
Tối hôm ấy, khi Jim Westcott đi làm về, anh đến cái radio và tự tin điều chỉnh các nút vặn. Kinh nghiệm của anh cũng chẳng khác với Irene là mấy. Một người đàn ông đang nói trên đài mà Jim đã chọn, rồi giọng của ông ta từ xa xa thình lình ập tới với một súc mạnh làm rung rinh cả căn chung cư. Jim vặn nút âm thanh nhỏ xuống. Chỉ vài phút sau, âm thanh bắt đầu bị nhiễu. Tiếng reo của điện thoại, tiếng chuông cửa chen vào, hoà cùng tiếng cửa thang máy đóng mở sột soạt lẫn với tiếng của các dụng cụ làm bếp. Âm thanh lúc này đã thay đổi so với lúc Irene nghe radio ban nãy. Tiếng động cuối cùng của những cái máy cạo râu vừa rút điện ra, những cái máy hút bụi cất vào lại trong tủ, và tiếng nhiễu âm cho thấy một nhịp độ thay đổi đang bao trùm lấy cả thành phố khi chiều xuống. Jim loay hoay với những cái nút nhưng vẫn không tài nào chặn được các âm nhiễu. Anh tắt radio và bảo Irene là ngày mai anh sẽ gọi chỗ bán máy để làm cho họ một trận.
Trưa hôm sau, lúc Irene vừa đi ăn trưa với mấy người bạn về, người tớ gái cho cô biết là có người đã đến sửa cái máy phát thanh. Không kịp giở nón hay cởi áo choàng ra, Irene vào ngay phòng khách để thử lại cái máy. Từ loa phát ra bài “Điệu Luân Vũ Missouri”[6], gợi cho Irene tiếng nhạc loang loãng, khào khào của một cái máy quay đĩa cũ kỹ mà thỉnh thoảng cô nghe được từ bên kia bờ hồ vẳng lại, nơi cô thường đến nghỉ hè. Cô chờ đến lúc bản nhạc chấm dứt, đợi nghe phần chú giải, nhưng chẳng có gì cả. Tiếp theo là một khoảng im lặng, rồi tiếng nhạc đĩa ai oán, khào khào lặp lại. Cô vặn nút cho âm thanh lớn lên, nghe được khá rõ một đoạn nhạc miền Causase–tiếng những bàn chân trần giậm trên nền đất và tiếng leng keng của những đồng tiền dùng làm đồ trang sức–nhưng đằng sau tiếng nhạc cô vẫn nghe tiếng chuông reo lẫn tiếng người cười nói. Lúc đó thì hai đứa con của cô vừa đi học về nên cô tắt máy đi vào phòng của chúng.
Buổi tối, Jim đi làm về, mệt đừ. Anh đi tắm và thay quần áo. Sau đó anh ra phòng khách, nơi Irene đang ngồi. Vừa bật radio lên thì anh đã nghe người tớ gái báo bữa cơm tối đã dọn lên. Anh cứ để radio mở rồi hai vợ chồng bước qua ngồi vào bàn ăn.
Jim mệt mỏi đến nỗi anh không buồn tỏ ra muốn chuyện trò với vợ, còn bữa cơm cũng chẳng có gì làm Irene để tâm vào, nên sự chú ý của cô lan man từ các món ăn qua lớp bạc mạ lên cặp chân đèn cầy, rồi từ đó qua đến tiếng nhạc ở phòng bên cạnh. Trong một vài phút, cô lắng nghe khúc dạo của Chopin[7], rồi ngạc nhiên nghe thêm được giọng của một người đàn ông chen vào. “Chúa ơi”, ông ta kêu lên, “Kathy, mỗi lần anh về là em lại phải chơi piano hay sao?” Tiếng nhạc chợt ngưng lại. “Đó là lúc duy nhất em chơi đàn được”, giọng một người đàn bà đáp lại. “Suốt ngày em ngồi ở chỗ làm rồi”. “Anh cũng vậy!” người đàn ông trả lời. Anh ta thêm vào một lời bình phẩm sỗ sàng về chiếc dương cầm rồi đóng sập cửa lại. Đoạn nhạc sôi nổi và nỉ non bắt đầu trở lại.
“Anh có vừa nghe gì không?” Irene hỏi.
“Nghe cái gì?” Jim đang nhồm nhoàn món tráng miệng.
“Cái radio. Có giọng một người đàn ông chen vào tiếng nhạc–ông ta ăn nói thô tục lắm”.
“Chắc đó là một vở kịch”.
“Em không nghĩ vậy”, Irene cãi.
Hai người đứng lên, tay cầm ly cà-phê, cùng bước qua phòng khách. Irene bảo Jim đổi qua một đài khác. Anh xoay cái nút. “Em có thấy đôi vớ của anh đâu không?” tiếng một người đàn ông hỏi. “Anh cài nút phía sau giùm em”, giọng một người đàn bà nói. “Em có thấy đôi vớ của anh đâu không?” người đàn ông lại hỏi. “Anh cài giùm em mấy cái nút rồi em sẽ tìm vớ cho anh”, người đàn bà bảo. Jim vặn qua một đài khác. “Anh không muốn em bỏ lõi táo vào cái gạt tàn thuốc”, một người đàn ông lầu nhầu. “Anh ghét cái mùi đó lắm!”
“Lạ nhỉ”, Jim nói.
“Lạ thật đấy”, Irene biểu đồng tình.
Jim lại vặn cái nút. “ ‘Trên miền duyên hải Coromandel, nơi những quả bí đỏ đầu mùa thở phì phò,’” một người đàn bà đọc với giọng Anh, “trong rừng sâu, nơi Yonghy-Bonghy-Bò sống. Hai cái ghế cũ kỹ, nửa cây nến, một cái bình đã sứt quai…[8]’”
“Lạy Chúa tôi!” Irene kêu lên. “Đó là giọng của cô bảo mẫu nhà Sweeney”.
“ ‘Đó là tất cả của cải trần gian của anh ta,’ ” giọng tiếng Anh tiếp tục đọc.
“Tắt radio đi anh”, Irene nói. “Họ có thể nghe mình được đó. Jim tắt máy. “Đó chính là cô Armstrong, cô bảo mẫu của gia đình Sweeney”, Irene nói. “Chắc cô ta đang đọc sách con bé nhà ấy nghe. Họ sống trong căn 17-B. Em đã từng nói chuyện với cô Armstrong ngoài công viên. Giọng cô ta em biết mà. Chắc là chúng ta đã nghe được các nhà khác rồi, anh ạ”.
“Làm sao có chuyện như vậy được”, Jim bảo.
“Đúng là cô bảo mẫu nhà Sweeney”, Irene sôi nổi nói. “Nghe giọng là em biết. Chắc chắn là thế. Em đang thắc mắc chẳng biết họ có nghe mình được không”.
Jim lại vặn cái nút. Thoạt đầu là từ xa xa, sau rõ dần, rõ dần, như thể được cơn gió đưa lại, giọng đặc Anh của cô bảo mẫu nhà Sweeney một lần nữa: “ ‘Công nương Jingly! Công nương Jingly!’” cô ta đọc, “nàng ngồi nơi những quả bí đỏ đang phì phò thở, nàng hãy đến đây làm vợ ta! anh chàng Yonghy-Bonghy-Bò nói…’”
Jim tiến gần đến cái radio, nói vọng vào cái loa “Chào cô!”
“‘Ta đã chán sống đời độc thân”, cô bảo mẫu tiếp tục đọc, “ ‘trên vùng biển hoang sơ đầy sỏi đá, ta chán cuộc đời ta; nếu nàng đến đây làm vợ ta, thì đời ta sẽ êm đềm biết mấy…’”
“Em nghĩ chắc cô ta không nghe mình được, Irene kết luận. “Anh thử cách khác đi”.
Jim bật qua một đài khác, tức thì cả gian phòng khách tràn ngập tiếng lao xao của một buổi tiệc rượu đang đến hồi cao điểm. Ai đó đang vừa chơi dương cầm vừa hát bài “Whiffenpoof Song”,[9] và nhiều giọng nói vây quanh chiếc dương cầm, vui vẻ và hào hứng. “Ăn thêm sandwich đi”, giọng một người đàn bà vang lên the thé. Rồi thì là tiếng hét, tiếng cười, cả tiếng vỡ loảng xoảng của một cái đĩa trên nên nhà.
“Mấy người này hẳn là nhà Fuller, trong căn 11-E”, Irene quả quyết. “Em biết là nhà họ chiều nay có tiệc. Em có gặp bà ấy trong tiệm rượu. Chẳng phải như thế này là tuyệt lắm sao? Anh thử đài khác đi. Để xem anh có thể nghe được những người trong căn 18-C không”.
Chiều hôm ấy, hai vợ chồng nghe được một màn độc thoại về chuyến đi câu cá hồi ở Canada, một ván cờ bridge, các lời bình phẩm về mấy cuốn phim gia đình quay trong hai tuần lễ đi chơi ở Sea Island, và một trận đấu khẩu kịch liệt trong nhà về việc rút tiền nhà băng quá lố. Mãi đến nửa đêm họ mới tắt radio đi ngủ, cười đến rũ cả người. Có đêm thằng bé con đòi uống nước, Irene rót một ly đem vào phòng cho con. Chỉ mới đầu đêm. Đèn đóm trong khu nhà đã tắt ngúm cả, và từ của sổ phòng thằng bé, cô nhìn thấy con đường bên dưới thật vắng vẻ. Cô đi qua phòng khách, mở radio lên. Có vài tiếng ho khe khẽ, một tiếng rên rỉ, rồi một người đàn ông hỏi, “Em có sao không?” “Không sao”, người đàn bà mệt mỏi trả lời, “Chắc không có gì đâu, anh”, rồi bà ta nói thêm, giọng xúc động, “Nhưng, anh biết không, Charlie, sao bây giờ em thấy trong người khác lạ lắm. Trong tuần, có khi em được bình thường khoảng mươi, mười lăm phút. Em không muốn đi bác sĩ khác, vì hoá đơn bác sĩ đã nhiều quá rồi, nhưng thật tình là em cảm thấy không được ổn, Charlie à. Em chẳng bao giờ thấy bình thường nữa”. Hai người này chắc không còn trẻ, Irene nghĩ thầm. Nghe giọng họ nói cô đoán họ khoảng trung niên. Cái buồn đè nén trong mẩu đối thoại và làn gió lạnh luồng qua cửa sổ làm cô rùng mình. Cô trở vào phòng ngủ.
Sáng hôm sau, Irene sửa soạn bữa điểm tâm cho cả nhà–đến 10 giờ người tớ gái mới từ phòng cô ta dưới tầng hầm lên. Cô bím tóc cho con bé gái, và đứng ở cửa chờ cho ba cha con bước vào trong thang máy. Rồi cô vào phòng khách, mở radio. “Con không muốn đi học”, một đứa nhỏ gào lên. “Con ghét đi học. Con không muốn đi học. Con ghét đi học”. “Con phải đi học”, bà mẹ giận dữ nói. “Bố mẹ trả tám trăm đô-la để cho con vào được trường đó, nên có chết con cũng phải đi học”. Tiết mục kế tiếp trên băng tần đó là tiếng đĩa cũ sờn của bài “Điệu Luân Vũ Missouri”. Irene xoay nút và thâm nhập sự riêng tư trong nhiều bàn điểm tâm. Cô nghe lỏm được nhiều cảnh ngộ: chứng khó tiêu, một cuộc làm tình, thói phù phiếm, lòng tín ngưỡng và sự tuyệt vọng. Cuộc sống của Irene vốn giản dị và êm đềm, nên thứ ngôn ngữ huỵch toẹt, đôi khi tàn bạo, từ trong cái loa đưa ra vào buổi sáng hôm ấy khiến cô kinh ngạc và xao xuyến. Cô ngồi nghe mãi cho đến lúc người tớ gái bước vào. Cô vội vàng tắt máy vì thấy rằng mình đang làm một chuyện lén lút.
Hôm đó Irene có hẹn đi ăn trưa với một người bạn. Cô ra khỏi nhà sau 12 giờ. Lúc thang máy dừng lại ở tầng của cô, đã có một số người đàn bà trong đó. Cô ngắm những gương mặt xinh đẹp nhưng lạnh lùng của họ, những cái áo lông và những bông hoa bằng vải cài trên mũ của họ. Ai trong bọn họ là người đi nghỉ hè ở Sea Island? cô tự hỏi. Ai là kẻ đã rút tiền quá lố ở nhà băng. Thang máy dừng lại ở tầng thứ mười, một người đàn bà dắt theo hai con chó giống Skye bước vào. Tóc bà ta buộc cao lên và bà khoác một cái áo lông chồn. Bà đang ngâm ư ử bài “Điệu Luân Vũ Missouri”.
Irene uống hai ly Martini vào bữa ăn trưa. Cô nhìn người bạn của mình một cách dò xét, tự hỏi cô ta có những điều bí mật gì. Cả hai đã dự định sẽ cùng đi mua sắm sau khi ăn, nhưng Irene thoái thác để đi về nhà. Cô dặn người tớ gái rằng mình không muốn bị quấy rầy, đoạn cô đi thẳng vào phòng khách, đóng cửa lại và vặn radio lên. Suốt buổi chiều, cô nghe được cuộc nói chuyện đứt quãng của một người đàn bà cố làm cho người dì vui, hồi kết thúc náo loạn của một bữa tiệc trưa và một bà chủ cho người tớ gái biết một số chi tiết về các vị khách đến dự tiệc rượu. “Chớ có mời loại Scotch hảo hạng cho ai chưa có tóc bạc đấy nhé”, bà chủ dặn dò. “Nhớ vất giùm chỗ pa-tê gan đó trước khi đưa cho tôi mấy món nóng sốt đó, à, và cho tôi mượn năm đô-la được không? Tôi muốn cho ông giữ thang máy”.
Xế chiều, những câu chuyện càng trở nên sôi động. Từ chỗ mình đang ngồi, Irene có thể thấy bầu trời dàn trải mênh mông trên dòng sông Đông. Mây giăng chập chùng trên cao, như thể làn gió từ hướng nam đã làm mùa đông vỡ vụn ra thành trăm nghìn mảnh và thổi hết chúng về hướng bắc. Từ cái máy phát thanh, Irene nghe tiếng khách lục tục đến dự buổi tiệc rượu, tiếng trở về nhà của đàn trẻ từ trường học, của những doanh gia từ văn phòng. “Sáng nay em nhặt được một viên hột xoàn khá lớn trong phòng vệ sinh”, một người đàn bà khoe. “Chắc nó rớt từ trong cái vòng đeo tay của bà Dunston đeo hồi tối. “Mình bán nó đi em”, một người đàn ông bảo. “Em mang nó đến tiệm kim hoàn trên đường Madison mà bán. Bà Dunston không biết đã mất nó đâu. Mình cũng cần vài trăm đô-la..”. “ ‘Cam và chanh, các quả chuông ở nhà thờ St. Clement đã ngân nga lên như thế,’ ” cô bảo mẫu nhà Sweeney tỉ tê hát. “ ‘Một đồng nửa xu và mấy đồng một phần tư xu, các quả chuông ở nhà thờ St. Clement cũng phụ hoạ. Khi nào anh mới trả cho em? mấy quả chuông ở Old Bailey[10] rền rĩ…’ ”[11] “Đó không phải là chuyện cái mũ”, một người đàn bà nói to, đằng sau là tiếng ồn ào của một buổi tiệc rượu. “Không phải chuyện cái mũ, mà là chuyện một vụ ngoại tình. Walter Florell đã bảo như vậy. Ông ta nói không phải là chuyện cái mũ, mà là một vụ ngoại tình”, đoạn, hạ thấp giọng, cũng người đàn bà đó nói tiếp, “Nói chuyện với một người nào đi anh, vì tình yêu của Chúa, nói với bất cứ một ai. Nếu bà chủ nhà bắt gặp anh đứng trơ ra đó mà không tiếp chuyện với ai cả, bà ta sẽ gạt vợ chồng mình ra khỏi danh sách khách mời, mà em thì mê các buổi tiệc như thế này lắm”.
Đêm đó, hai vợ chồng Westcott định đi ăn ngoài. Lúc Jim về đến nhà, Irene đang thay quần áo. Thấy cô có vẻ buồn và tư lự, Jim rót và mang lại cho cô một ly rượu. Hai người sắp đến ăn tối với bạn bè gần nhà. Họ tản bộ đến đó. Bầu trời thênh thang, ngập tràn ánh sáng. Đó là một trong những buổi tối mùa xuân rực rỡ, gợi đến ký ức và ước mơ, và làn không khí mơn trớn lên tay, lên mặt họ, thật mềm mại. Một ban nhạc Salvation Army đứng ở góc đường, chơi bài “Giê-su Còn Dịu Dàng Hơn”. Irene níu lấy cánh tay của chồng và giữ yên như thế trong khoảng một phút đồng hồ để nghe bản nhạc. “Họ thật là những người thánh thiện, anh nhỉ?” cô thì thào. “Gương mặt họ rạng rỡ, trông thánh thiện hơn bao nhiêu người mà chúng ta quen biết”. Cô lấy trong ví ra một tờ giấy bạc, bước đến gần và bỏ nó vào cái trống lục lạc. Lúc quay lại với chồng, mặt cô bừng lên một nỗi buồn lấp lánh mà anh chưa từng trông thấy. Và suốt bữa ăn đêm ấy, lời nói, điệu bộ của cô, đối với anh cũng rất lạ lùng. Cô cáu kỉnh ngắt lời người chủ nhà và cứ lom lom nhìn những người ngồi đối diện một cách gay gắt, như thể cô đang trừng phạt lũ trẻ ở nhà.
Tiệc tan, họ đi bộ về nhà, trời vẫn còn dịu mát. Irene ngước lên nhìn những vì sao mùa xuân. “ ‘Ngọn nến nhỏ kia hắt ánh sáng thật xa là xa,’ ” cô thốt lên. “ ‘Toả ra điều thiện lành trong thế giới hư hao.’ ”[12] Đêm ấy, cô đợi cho Jim ngủ say rồi mới ra phòng khách, bật radio lên.
Tối hôm sau, Jim về nhà vào khoảng sáu giờ. Emma, người tớ gái, mở cửa cho anh vào. Jim đang loay hoay giở nón, sắp cởi cái áo choàng ra thì Irene chạy ào ra phòng ngoài. Mặt cô loang loáng nước mắt, tóc cô rũ rượi. “Jim, chạy lên căn 16-C đi anh!” cô la to. Ông Osborn đang đánh vợ của ông ấy! Hai người cãi nhau từ lúc bốn giờ đến giờ, và bây giờ ông ta đang đánh vợ. Anh chạy lên can ông ta đi!”
Từ cái radio trong phòng khách, Jim nghe được tiếng la hét, tiếng chửi thề và tiếng đánh đấm huỳnh huỵch. “Em có phải nghe những chuyện như thế này đâu!” anh càu nhàu và chạy ào vào phòng để tắt máy. “Như vậy là không đàng hoàng”, anh nói thêm. “Chẳng khác gì nhìn trộm qua cửa sổ. Em biết là không cần nghe những chuyện như thế mà. Em chỉ việc tắt cái máy đi là xong”.
“Ô, thật khủng khiếp, thật kinh hoàng!” Irene khóc nức nở. “Em nghe suốt ngày, buồn lắm, anh ơi!”
“Nếu buồn thì em nghe làm gì? Anh mua cái của chết tiệt này về để làm em vui mà”, anh ngao ngán nói. “Anh đã tốn bộn tiền vì nó, cứ tưởng nó sẽ mua vui cho em. Anh chỉ muốn làm em vui thôi”.
“Đừng, đừng, đừng, đừng cãi nhau với em”, cô rên rỉ, gục đầu vào vai anh. “Người ta đang cãi nhau cả ngày lẫn đêm. Ai ai cũng cãi nhau. Ai cũng lo lắng về chuyện tiền nong. Mẹ bà Hutchinson ở Florida sắp chết vì ung thư, mà họ không có tiền để đưa bà vào Viện Điều Dưỡng Mayo. Ít ra là bà Hutchinson cũng nhận là bà không có tiền. Còn một bà khác trong khu của mình đang dan díu với anh thợ sửa nhà–cái anh thợ xấu như ma mút ấy. Thật là đáng tởm. Bà Melville thì bị bệnh tim, ông Hendricks sắp mất việc vào tháng Tư tới, và bà Hendricks đang hoảng lên vì chuyện ấy; cô gái thường chơi bài “Điệu Luân Vũ Missouri” là một con điếm, một con điếm thập phương; ông gác thang máy đang bị bệnh ho lao, còn ông Osborn cứ ngày đêm đánh đập bà Osborn”. Cô rền rĩ, run rẩy toàn thân trong cơn buồn bã, tay không ngừng vuốt nước mắt dầm dề tuôn trên mặt.
“Ai bảo em phải nghe hết những chuyện đó?” Jim lại hỏi. “Tại sao em phải nghe những điều làm cho em buồn rầu như vậy chứ?”
“Ô, đừng anh, đừng, đừng”, cô kêu lên. “Cuộc sống thật đáng sợ, thật kinh khủng, thật cay đắng. Chúng mình hồi giờ đâu có như vậy, phải không anh? Phải không? Lúc nào mình cũng đàng hoàng, tử tế và thương nhau rất mực. Mình có hai đứa con, hai đứa con xinh xắn. Cuộc sống của chúng ta không cay đắng, đúng không anh? Đúng không?” Cô vươn tay níu cổ anh xuống. “Chúng ta rất hạnh phúc, phải không anh? Chúng ta hạnh phúc, đúng không anh?”
“Lúc nào mình chẳng hạnh phúc”, Jim mệt mỏi nói. Anh bắt đầu nguôi giận. “Tất nhiên là chúng ta hạnh phúc. Ngày mai anh sẽ đem cái radio quỷ tha ma bắt ấy đi sửa, hay vất tuốt nó luôn cũng nên”. Anh vuốt mái tóc mịn màng của cô. “Tội nghiệp em quá”, anh thủ thỉ.
“Anh yêu em, phải không?” cô hỏi, “và chúng ta không bao giờ phán xét ai quá mức, hay lo lắng chuyện tiền bạc, hay thiếu lương thiện, phải vậy không anh?”
“Không bao giờ”, anh vỗ về cô.
Sáng hôm sau, lại có người đến sửa cái máy phát thanh. Irene thận trọng mở nó lên, vui vẻ nghe mục quảng cáo về rượu vang California, rồi đến Bản Giao Hưởng Số Chín của Beethoven, kể cả nhạc phẩm “Hoan Ca” của Schiller[13]. Cô để radio hát suốt ngày hôm ấy, không có gì bất thường phát ra từ trong loa cả.
Jim về nhà lúc một chuỗi nhạc Tây Ban Nha đang vang lên từ cái radio. “Mọi việc ổn cả chứ em?” anh hỏi. Mặt anh xanh xao, cô để ý thấy vậy. Hai vợ chồng uống vài ly rồi bắt đầu ăn tối trong tiếng nhạc của bài “Coro delle incudini” trong vở Il Trovatore. Tiếp đó là bài “La Mer” của Debussy[14].
“Hôm nay anh đã trả hết tiền cho cái radio rồi đó”, Jim nói. “Hết bốn trăm đô-la. Anh chỉ mong nó làm cho em vui mà thôi”.
“Ồ, tất nhiên là em vui rồi”, Irene đáp.
“Bốn trăm đô-la quả là đã vượt quá túi tiền của anh”, anh nói tiếp. “Anh muốn một món có thể mua vui cho em. Đó là món xa xỉ cuối cùng mà chúng ta có thể hưởng trong năm nay. Anh biết là em chưa trả hết mấy cái hoá đơn quần áo. Anh thấy chúng còn nằm trên bàn trang điểm của em đó”. Anh nhìn thẳng vào mắt cô, “Sao em lại bảo em đã trả hết rồi? Sao em lại nói dối với anh như vậy?”
“Em không muốn làm anh lo thôi, Jim”, cô trả lời, hớp một ngụm nước. “Em sẽ dùng tiền anh cho em để thanh toán hết mấy cái hoá đơn đó. Mình còn phải trả tiền tấm phủ sofa mua tháng trước, và bữa tiệc nữa”.
“Em phải biết cách tiêu sao cho khéo những món tiền anh cho em chứ, Irene”, anh nghiêm giọng. “Em phải hiểu rằng năm nay mình không có nhiều tiền bằng năm ngoái đâu. Hôm nay anh vừa nói chuyện rất thẳng thắn với Mitchell. Chẳng có ai mua bán gì cả. Công ty của anh đang tốn nhiều thời gian để quảng cáo những mặt hàng mới, em biết là phải lâu đến chừng nào đấy. Anh cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Ba mươi bảy tuổi rồi. Năm sau là tóc anh sẽ bắt đầu bạc. Anh không ăn nên làm ra như đã kỳ vọng. Trước mắt chẳng thấy có gì hứa hẹn”.
“Em biết chứ”, cô lí nhí nói.
“Chúng ta phải giảm chi tiêu”, Jim nói. “Anh và em phải nghĩ đến hai đứa con của mình. Thành thật mà nói, anh rất lo về chuyện tiền bạc. Anh không biết ngày mai sẽ ra sao. Không ai biết được điều đó. Nếu anh có bề gì, tiền bảo hiểm thì có đấy, nhưng cũng chẳng được bao lăm đâu. Anh làm việc rất cực khổ để em và các con sống thoải mái”, anh cay đắng nói. “Anh không muốn thấy tất cả sức lực hay tuổi trẻ của mình bị hoang phí vì mấy cái áo lông, cái radio hay tấm khăn phủ ghế hay..”.
“Jim, em xin anh”, cô khẩn khoản, “Họ sẽ nghe hết cả đấy”.
“Ai vào đây mà nghe? Emma có nghe được gì đâu?”
“Cái radio đó”.
“Ôi trời, tôi muốn phát bệnh lên rồi đây!” anh gào lên. “Tôi muốn phát bệnh lên mà chết vì sự sợ sệt của cô. Cái radio làm sao mà nghe mình nói gì. Không ai nghe được mình nói cả. Mà có nghe thì đã sao? Tôi cóc cần!”
Irene đứng lên khỏi bàn ăn, chạy ra ngoài phòng khách. Jim đuổi theo đến cửa, hét vọng qua. “Sao tự dưng cô lại trở nên thánh thiện vậy? Phép lạ nào đã biến cô thành một nữ tu nhà dòng chỉ qua một đêm thôi? Cô đã lấy cắp vòng vàng của mẹ cô trước khi người ta chứng thực di chúc của bà. Cô không loại ra đến một đồng xu cho em của cô trong số tiền dành cho cô ấy–ngay cả lúc cô ấy thiếu thốn nhất. Cô làm cho cuộc đời của Grace Howland vô cùng khốn đốn. Và lòng thương xót cùng đức hạnh của cô biến đâu cả rồi khi cô tìm đến gã phá thai đó? Tôi không bao giờ quên được cô đã lạnh lùng đến mức nào. Cô khăn gói ra đi để người ta giết đứa bé, như thể cô đang du lịch ở Nassau vậy. Giá như cô còn được một chút lý trí, giá như cô còn được chút lý trí nào…”
Irene đứng yên trong một phút trước cái máy phát thanh đáng sợ đó, ê chề và nhục nhã. Nhưng mấy ngón tay cô vẫn tần ngần trên cái nút, chưa nỡ tắt đi tiếng nhạc và các âm thanh khác, như còn hy vọng cái máy có thể nói đôi lời tử tế với mình, biết đâu cô còn nghe được giọng của cô bảo mẫu ở nhà Sweeney. Jim vẫn đang la hét ở ngưỡng cửa. Giọng nói từ cái radio bay ra, nhẹ nhàng và dửng dưng. “Một tai nạn xe lửa vào sáng sớm ở Tokyo”, tiếng loa vang vang, “làm hai mươi chín người thiệt mạng. Một trận hoả hoạn ở bệnh viện Công Giáo gần Buffalo dành cho trẻ em khiếm thị đã được các nữ tu dập tắt vào sáng sớm hôm nay. Nhiệt độ bây giờ là bốn mươi bảy độ. Độ ẩm là tám mươi chín”.
John Cheever
1953
[1] Khu sang trọng ở phía đông của thành phố New York.
[2] Quận hạt của dân nhà giàu ở vùng ngoại ô phía bắc của New York.
[3] Thị xã nhỏ thuộc hạt Allegany, New York.
[4] Franz Peter Schubert (1797-1828) nhà soạn nhạc người Áo.
[5] Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791), nhà soạn nhạc người Áo.
[6] Missouri Waltz, nhạc phẩm rất phổ biến vào năm 1916 của J. R. Shannon và Frederick Knight Logan.
[7] Frédéric François Chopin (1810-1849) nhà soạn nhạc người Pháp gốc Ba Lan.
[8] Trong bài thơ Courtship of the Yonghy-Bonghy-Bò (Tạm dịch: Tài Tán Tỉnh của Yonghy-Bonghy-Bò) của Edward Lear (1812-1888), tác giả của những bài thơ, truyện ngắn, ca khúc vô nghĩa.
[9] Bài hát thường được dùng để kết thúc chương trình của nhóm Whiffenpoofs, một ban nhạc a capella ở Đại Học Yale, được in thành bản nhạc năm 1909.
[10] Tên gọi thân mật của nhà thờ St. Sepulchre Without Newgate
[11] Từ một bài ca dân gian Anh
[12] Trong Người Lái Buôn Thành Venice của Shakespeare 5.1.
[13] Neunte Symphonie của Ludwig van Beethoven (1770-1827), nhà soạn nhạc người Đức – Ode an die Freude, thơ của Johann Christoph von Shiller (1759-1805), thi sĩ người Đức.
[14] “Biển” của Claude Achille Debussy (1862-1918) nhà soạn nhạc người Pháp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét