18 thg 1, 2025

Kẻ Chiến Bại - Bình Nguyên Lộc

 

Kẻ Chiến Bại - Bình Nguyên Lộc

KẺ CHIẾN BẠI


Gõ cửa đến ba, bốn hiệp, mà không thấy bóng ai, cũng không nghe ai lên tiếng, tôi gọi to:

– Có ông chủ ở nhà không?

– Ai đó? Mạnh hả, đi tuốt xuống đây.

Tiếng anh Thành nghe xa lắm, ở mãi dưới bếp.

Tôi bước vào buồng khách và ngần ngại đứng dòm ra sau. Thành, chắc hiểu ý tôi, nên bảo nữa:

– Đi xuống đây mà. Nhà không ai hết.

Tôi quen nhiều với anh Thành, mà không là bạn thân với anh ấy, nên tôi chưa xông pha nhà nầy lần nào cả, vì còn phải giữ lễ với chị Thành.

Hôm nay, chắc chị Thành đưa con về quê nghỉ mát, nên nhà vắng và anh Thành, chắc đang đun nước ngoài sau.

Nhưng đi đến nơi, tôi ngạc nhiên hết sức: anh Thành mặc bi-da-ma, coi có vẻ trai thế kỷ hai mươi lắm, nhưng anh ta lại đang đứng say sưa ngắm một cảnh non bộ, đặt ở giữa sân trong.

– Cha, có gắn hòn non bộ trong nhà à? Sao không bao giờ nghe cha nói đến?

Tôi hỏi, sau mấy phút chưng hửng nhìn bạn.

– Các anh hiểu gì mà nói cho mệt. Không phải tôi gắn đâu nhé. Mới gắn gì mà rêu đã phủ xanh các gộp đá, mới gắn, nó đâu được vẻ cổ kính như vầy. Số là cái ông nào đó, trước ở đây, chừng như lâu lắm, đã tạo nên cảnh thiên nhiên nầy. Rồi ông đi hay chết mất, bộ giả sơn truyền qua không biết bao nhiêu người, bị bỏ bồ lăn, bồ lóc, bây giờ mới đến tay tôi.

Tôi nhớ, thuở tôi còn nhỏ, ông tôi cũng chơi non bộ, nên tôi hơi biết thưởng thức món đó




Quả thật, hòn núi giả nầy rất đẹp. Nó đẹp vì đấp khéo. Những phiến đá, những khối xi-măng như là vứt bừa bãi lên đó, không tố giác được công trình của tay người. Y như là một khối đá tự nhiên bị nước đào mòn, khuyết đi một cách không lề lối. Nó lại đẹp vì vẻ cổ kính của nó, Năm tháng, gió sương, mưa nắng đã thổi sanh khí vào hòn non bộ ấy, tạo cho nó một sức sống mãnh liệt. Một lớp rêu xanh mịn, mướt lông nhung phủ kín mặt đất và từ mỗi hốc đá, mọc ra, từ bao lâu rồi không biết, đủ thứ cỏ rong. Nhìn hòn giả sơn, không khỏi nghĩ đến rừng núi thâm u, ngàn năm chưa thấy dấu chơn người.

Tôi theo Thành vào nhà, cái nhà lá nho nhỏ, mà anh gọi là thảo lư. Cái tiếng thảo lư nầy, cùng với mớ tranh Tàu treo trên vách, khiến tôi thấy Thành có vẻ Tàu lắm, hay có ý muốn thành Tàu lắm, một thứ Tàu đâu hồi cổ sơ, Tàu của thời Xuân Thu, Tàu đầy thơ mộng và đông đúc những Tiên.

Tự nhiên là Thành cho tôi uống trà Tàu. Thường thường, anh Thành uống trà hơi ấm thôi, uống cả ly lớn. Nay anh và tôi uống chén nhỏ, nước trà thật nóng.

– Đó, anh hớp từng hớp, rồi đừng nói gì, cứ nhìn cảnh rồi suy tưởng.

Lẽ cố nhiên là tôi không nói gì trước người con trai biết ham thích sống ồn, sống hoạt, bây giờ biến thành một ông Tàu ngậm ống điếu dài, hay một nhà Nho, móng tay dài cũng thế.

Tay nâng ngang môi chung trà xưa, mà nét vẽ rất thanh đạm trên men ngà, Thành như chìm trong bồn cá Tàu giữa bàn. Cá nhiều màu lượn quanh những thủy thảo mọc lên trên một nền sạn trắng và đá biển, cũng hiểm hóc như hòn non bộ.

Chịu không nổi sự im lặng mãi, tôi nói:

– Anh còn thiếu một món nữa mới thành một ông Tàu hoàn toàn.

– Món gì?

– Chim.

– Phải, thiếu chim. Nhưng tôi thấy chim lồng không đẹp, nên thôi không nuôi.

– Nhưng còn những cái nầy, không ở trong lồng sao? Anh đem nước non, trời biển thu nhỏ lại trong một góc vườn, một bồn kiểng, còn đẹp gì nữa.

– Ấy mà đẹp. Chính vì thu lại được, nó mới đẹp. Mà thu lại là cả một nghệ thuật đấy nhé! Con chim thì thấy nó ở trong lồng thật sự, có cái gì nhơn tạo trong đó, chán quá.

Anh coi như cây tùng và cây chùm nụm ngoài sân kia, nếu tôi trồng dưới đất, nó sẽ lớn. Nhưng nó không đủ sức lớn để trở thành cây cổ thụ trong rừng sâu.

Bây giờ tôi ép nó mọc trong chậu, thiếu chất ăn, nó thành cằn cỗi như cây già trên núi. Coi hay lắm.

– Bệnh lao phổi có dính dáng gì đến sở thích kỳ dị của anh chăng?

Anh Thành đau phổi đã ba năm rồi, và nhờ khéo chữa nên đã khỏi.

Anh Thành ngả lưng lên ghế cười ha hả:

– Anh lầm to, như bao nhiêu người khác. Tôi vẫn có sở thích nầy từ lâu rồi, tôi vẫn chơi cá Tàu, non bộ, cây cảnh. Tôi chơi từ cái lúc tôi còn đi đánh ten-nít, đi bơi lội kia. Không, cái thú nầy không phải cái thú riêng của ông Tàu ủ rũ, hay ông già lụ khụ. Nó vẫn đi đôi được với sự sống ồn, trẻ và hoạt.

Rồi đột ngột, anh hỏi:

– Dynamique dịch ra Việt ngữ là gì?

– Tôi dịch không nổi tiếng đó, anh cứ tạm nói là cường sinh đi.

– Không ổn. Nhưng tạm dùng vậy. Anh có biết dân tộc nào cường sinh hơn dân tộc Nhựt Bổn không? Thế mà họ là những tay chơi cây cảnh, non bộ sành nhứt đó.

Phải, bịnh tật làm cho con người ủy mị, nhưng trò chơi nầy không ủy mị chút nào như nhiều người cứ tưởng và cứ cho đó là món giải trí phong kiến và lạc hậu.

Ở đời có nhiều việc, mới xem, ngỡ là trái ngược với nhau. Nhưng thật ra, nó đi đôi với nhau rất xứng. Ai bảo thủ bằng dân Anh. Nhưng có phải là dân Anh làm cách mạng trước nhứt chăng? Ai tin ma cho bằng dân Anh. Nhưng có phải là dân Anh làm việc có phương pháp và suy luận khoa học nhứt chăng?

*

* *

Trời nóng bức quá. Tôi đòi nước đá.

– Không, anh chỉ được uống trà nóng, trong thảo lư của bác Tàu cổ. Ta phải mín đàm cho nó đúng điệu. Cả một nghệ thuật đấy. Như tôi, tôi xem tranh ảnh về Huế, thì thế nào cũng không khỏi ngâm bài Nam bường

Nước non nghìn dặm ra đi…

Mượn màu son phấn đền nợ Ô, Ly…

và bắt thèm bánh lá chả tôm. Ấy, phải có một sự hòa hợp như vậy. Cây sì-cú nầy, – vừa nói, anh Thành vừa chỉ chậu sì-cú trên bàn, gần bồn cá -, riêng nó, không đẹp đẽ gì, mà thiếu thì không được đâu. Cá Tàu phải đi với sì-cú.

*

* *

Tối hôm đó, trời lặng gió. Trong khi cá táp móng nghe bong bóc trong bồn, Thành thắp hai cây đèn cầy, gắn trên hai viên gạch rồi đem đèn để phía ngoài kia, một cây sau hòn non bộ, một cây khác, sau chậu tùng.

Thành, như là ở đời xưa hiện về. Anh ngồi trên ghế bố, nhìn bóng dáng cái núi giả và cây tùng nổi bật lên trước ánh đèn.

Tôi cả rỡn:

– Quả thật là: yêu ngày chưa phỉ, lại yêu đêm.

– Đó, mới lòi chỗ dốt của anh nữa. Người ta chỉ nhìn cây kiểng và hòn non bộ như vậy thôi. Ban ngày, con mắt bị xao lãng vì những cái thấy khác. Vả, ban ngày cảnh thiệt xung quanh ta lớn quá, khiến ta cứ nhớ, ta nhìn núi giả. Giờ đây, ta sẵn lòng quên và được quên sự thật, chỉ thấy hình dáng của núi cao đứng sững trước mặt trời sắp lặn.

– Thi sĩ quá.

– Anh cứ mà chế nhạo, tôi không cần dư luận của ai hết. Giống lắm.

– Giống cái gì?

– Giống núi thật.

– Anh có đi chơi núi rồi à?

– Cũng có chớ. Mà việc trèo núi, ở đây, không dính dáng tới chỗ giống hay không. Giống là giống hòn núi thật, trông đàng xa. Còn chi tiết trên núi, tôi chưa nói đến. Cả trăm hòn non bộ trong nước Việt Nam, chưa dễ tìm ra được một hòn như vầy! Anh coi, các mỏm đá không đều, không cân xứng như ở mấy hòn khác, không có vẻ nhân tạo chút nào. Hoàn toàn giống thiên nhiên. Nếu chụp ảnh một mình nó, thì tôi đố ai khỏi lầm. Còn cái cây tùng và cây chùm nụm nầy, nó giống hệt cây cổ thọ.

Tôi nhớ ông chú tôi hồi đó hay chê dốt những người đem cây chùm nụm uốn thành hình con phụng, con công. Theo ông, cây chùm nụm phải có dáng tự nhiên như cây mọc trong rừng. Theo ông, các vườn Tàu, vườn Nhựt với những đường đi cong quẹo, với những xó ngạc nhiên, với những cầu tre bắc ngang suối giả, đẹp hơn vườn Âu Châu nhiều.

Bây giờ, ta lại nói đến chi tiết bộ giả sơn. Nếu không phải là một tay chơi sành lắm, thì không thể nào đắp nổi một hòn non như vầy, các hang đá hiểm hóc, ăn sâu vào núi, trông bí mật lạ. Nó trổ ra mặt hồ. Nếu có một chiếc xuồng nhỏ do một người bơi tẻ vào hang, thì ta không khỏi nghĩ đến người Đào Nguyên lạc lối. Cái khe nước chảy dưới cầu, để đổ ra hồ, có vẻ sống lắm. Tuy nó cạn, mà tôi, dường như, nghe nó thầm reo và tưởng nó đang len lỏi, dò lần về mẹ nó là cái hồ lớn kia, chú tiều phu vai trĩu củi và túp lều tranh đứng co ro đằng xa kia, thật là khéo lựa. Nó nhỏ vừa với sức lớn của núi rừng. Có người dốt, mua ông Tiên lớn quá, hoặc cái nhà quá to, trông nó luốt đi thành ra của họ, hòn non kêu lớn lên luôn luôn: “Ta đây giả, ta đây giả”. Hai ông tiên ngồi đánh cờ trên thạch bàn, gợi những ngày không bợn lo âu. Tôi tưởng như Bạch Hạc đồng tử bay gần đâu đó. Ngôi chùa rêu phủ đứng cheo leo trên sườn núi đẹp vô cùng, không khác gì tranh thủy mặc Tàu. Tôi rất yêu hình ảnh của nước Tàu cổ, nước Tàu với những tửu quán, trà đình với những nhà ngói sứ, mái cong cong, với những văn nhơn bắt gặp thơ đề trên vách một ngôi chùa xưa rêu phủ trong rừng tùng, nét chưa ráo mực, mà nàng tiểu thơ đề vịnh đã lâu rồi…

Nói tới đó, Thành chỉ lên vách, tôi nhìn theo, thì nhận ra một bức tranh, không, một tấm lụa, trên đó có viết bằng chữ thảo, một bài thơ Tàu:

Khứ niên kim nhựt thử môn trung

…..

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Nét chữ bay bướm, tung hoành, đẹp như một bức thủy mặc với những nét vẽ phác.

Tôi nhìn Thành trừng trừng, kinh ngạc trước con người chưa đi thi Huế lần nào nầy, mà cứ nói đến những chân trời xa.

– Hình như, anh ưa đi lắm thì phải?

Tôi hỏi để chắc bụng về ý nghĩ của tôi đối với mâu thuẫn kỳ dị trong con người nầy.

Thành không đáp ngay, chỉ đặt bàn tay lên vai tôi, rồi gởi gấm:

– Các cụ ta xưa, nhứt là những nhà Nho lỡ vận, thích non bộ, vì họ cố ý gạt gẫm lòng họ trong cảnh nước non, trời biển bị thu hình, để nghe như đã tóm thâu trần giới được trong tay họ.

Tôi bỗng chợt hiểu rằng, giấc mơ non xa, nước lạ của Thành, không phải do mộng đi bất toại mà có, mà chính là kết tinh của mặc cảm nhỏ nhoi của đời anh.

Bình Nguyên Lộc

 

17 thg 1, 2025

Hội CGC.CĐSP. TƯ.TPHCM thăm HP ngày 15/1/2025

 Chiều 15/1/2025 rất vui vì các đồng nghiệp trong hôi CGC.trường CĐSP.Trung Ương ghé thăm và tặng quà Tết

Gồm có :

- Đỗ thị Thanh Hương

- Võ thi Thanh Hồng

- Nguyễn Minh Hiếu

Thanh Hồng còn  cho mình thêm 1 chái dầu nóng của Mỷ vì vừa có chuyến du lịch Mỷ thăm bà dì

Thì giờ eo hep,các bạn còn phải thăm 2 đồng nghiệp khác,lại lo kẹt xe nên ko chuyện trò nhiều
Năm mới sắp đến,cầu chúc Mọi  Gia Đình  Các Đồng Nghiệp Luôn Vui Và Bình An

Chử Nghĩa Làng Văn Kỳ 15/1/2025 - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 Chữ nghĩa làng văn

 ***

 Bồ bịch

 Đây là hiện tượng mượn âm trong ngôn ngữ bị hiện tượng tỉnh lược chi phối. Tại sao có từ bồ bịch, nghĩa là nhân tình

Nguyên trước đây có một từ ghép bồ bịch, chỉ hai nông cụ. Bồ là dụng cụ đựng lúa, có đáy; còn bịch cũng là nông cụ đựng lúa nhưng là tấm ví khoanh tròn, không đáy vì lấy nền nhà làm đáy.

Do đó, ca dao có câu:

Bởi anh chăm việc canh nông

Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.

(Lê Trung Hoa - Hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ)

 Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ


Ta về ta tắm ao ta

Sảy chân chết đuối có người nhà vớt lên

 Chơi chữ

 Chơi chữ là các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa,... trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng bóng gió, châm biếm trong lời nói, trong đó ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cách,.. nhằm đem lại những liên tưởng bất ngờ, ly thú.

 Nguyễn Công Trứ trong bài Hàn nho phong vị phú, có câu

"Ngày ba bữa vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no; đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ".

 Nho sĩ họ Nguyễn đang ở trạng thái an bần lạc đạo (chịu nghèo khổ mà vui với lẽ đạo).

(Chơi chữ là gì? – Triều Nguyễn)

 Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca

 Đàn ông gối dụm, chân chàn

Chẳng cô gái đẹp cũng nàng nết na

Tớng mặt

 3 - Khuôn mặt chữ Mục (目) :

Đây là khuôn mặt dài, nẩy nở ở gò má, hẹp ở trán, đỉnh đầu và cằm. Đây là tướng hạ cách. Từ năm 20 tuổi trở đi gặp nhiều trở ngại, nghèo khó, khắc vợ con. Đàn bà có tướng mặt như trên chủ về hình phu khắc tử, nhưng lại rất thọ. Sự khắc chồng con và cô độc đó nặng nhẹ tùy theo thần khí và ngũ quan tốt xấu.

 Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca

 Chim sa, cá nhảy chớ nuôi

Những người lông bụng chớ chơi bạn cùngCách viết văn

 

Nhà văn giỏi là người biết quan sát và kể chuyện, hé lộ những điểm thắt nút, nhưng chi tiết tinh tế, gợi mở cho những gì sắp xảy ra. Người kể chuyện không nên có giọng điệu giảng giải. Anh ta phải biết tôn trọng sự thông minh của độc giả. Họ luôn biết lý giải câu chuyện theo cách riêng của mình.

 (Nhà văn không nên giảng giải cho độc giả - Ha Jin)

Nói lái xưa và nay 

 Trong loại thơ ca, hò vè cũng có thể tìm thấy nhiều câu nói lái : 

- Mắm nêm ăn với quả cà 
Vắng anh Tử Trực đâu mà biết ngon. 
(ăn mắm nêm với cà mà thiếu quả ớt thì không ngon. Ớt ? Thì tử là con, trực là ngay, con ngay > cay ngon, là ớt chứ gì nữa)

 - Bụi riềng trồng ở bờ ao 
Chú Mộc Tồn quấn quít ngày nào cũng xin. 
(mộc tồn : cây còn, con cầy, đã nói ở kỳ trước) 
(Nói lái mà chơi, nghe lái chơi - Thân Trọng Sơn)

 Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Bình tĩnh tự tin không cay cú

Âm thầm chịu đựng trả thù sau

 Vài kỷ niệm với những gặp gỡ

 Người bảo vệ NXB Trẻ là chị Định. Chị vui tính và đặc biệt là hầu như chị quen mặt, biết tên tất cả các phóng viên cũng như những người hay ra vào căn tin trong khuôn viên nhà xuất bản.

Một buổi sáng, khi tôi vừa đến thì thấy chị đứng khóc trước cổng, cùng lúc đó có Bùi Giáng mang bị, đeo đồ lỉnh kỉnh trên người vung gậy đi tới. Ông dừng lại hỏi thăm, khi biết chị Định vừa bị mất chiếc xe đạp, ông lặng lẽ ngồi xuống, mở bị lấy gói Basto, lột vỏ bao thuốc làm giấy, mượn tôi cây bút viết gì đó rồi trao cho chị Định, chị mếu máo cầm tờ giấy đưa lại cho tôi, trước cảnh tượng như vậy tôi không biết làm gì hơn là đọc cho chị nghe hai câu thơ của Bùi Giáng vừa làm tặng chị :

Bài thơ gởi tặng chị hai

Người còn thì của lai rai vẫn còn

 Khi tôi quay lại tìm Bùi Giáng thì ông đã đi xa rồi, đang vung gậy múa may phía trước.

 Sài Gòn là một thành phố sôi động, người tứ xứ dổ về đây mưu sinh đủ mọi thành phần, đường phố lúc nào cũng kẹt xe, người ta chen lấn lưu thông tất bật, hối hả trên mọi nẻo đường, nhưng với Bùi Giáng thì  ông không hề bị ảnh hưởng chút nào, ông xem thế giới ta bà này như một cõi để ông đến giải khuây thưởng ngoạn:

Sài gòn, Chợ lớn rong chơi.

Đi lên đi xuống đã đời du côn

 Những gì bắt gặp bên ngoài của một Bùi Giáng như say như tĩnh, như điên đảo ấy còn có một  con người khác, trong một cảnh giới khác, đầy ắp tình người, bao dung và lãng mạn :

Tuổi thơ em có buồn nhiều

Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua

 (Phạm Thành Chương *)

 (*) Phạm Thanh Chương sinh năm 1949 tại Phương Đông, Trà My, Quảng Nam, hội viên Hội nhà văn Sài Gòn. Trước 1975 ông viết bài cho tạp chí Văn. Tác phẩm đã xuất bản:

- Quanh tôi hiu hắt cuộc đời (thơ, NXB Hành động, 1971)
- Khói chiều (thơ, NXB Trẻ, 1994)

Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa

 Ngô Thế Vinh nói nhiều về thân thế cũng như sự nghiệp văn học của nhà văn Mặc Đỗ, ông không giấu giếm lòng tâm đắc và tâm phục của mình đối với nhà văn đàn anh trong nhóm Quan Điểm của văn học miền Nam này. Mỗi truyện ngắn của Mặc Đỗ được xem như “ngôn ngữ thì giàu hình ảnh, cô đọng và trau chuốt.”

Ông cũng yêu thích những truyện dài, truyện ngắn của nhà văn Linh Bảo như các cuốn Gió Bấc, Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ. Theo ông “ngòi bút của Linh Bảo thông minh, giễu cợt, với giọng nghịch ngợm tinh quái, nhưng chua chát. Người phụ nữ của Linh Bảo tuy cứng cỏi, chịu đựng của những hoàn cảnh.”

 Giấc Ngủ Chập Chờn, một truyện dài của nhà văn Nhật Tiến viết về ấp Vĩnh Hựu, một ngôi làng xa xôi tan nát do hoàn cảnh một vùng xôi đậu ban ngày Quốc Gia ban đêm Việt Cộng...”

 (Trịnh Y Thư) *

 


* Trịnh Y Thư tên thật Phạm Ngọc Minh, sinh năm 1952 tại HàNộilớn lên ở Sài Gòn. Du học tại Hoa Kỳ thập niên 70 hiện ở California USA
Cựu chủ bút tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ (từ 1990-1994) bài viết trên Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Nhân Văn, Thế Kỷ 21... 


Tác phẩm đã in : Chỉ là đồ chơi – Nguời đàn bà khác - Ðời nhẹ khôn kham (tiểu thuyết dịch của milan kundera)

Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết

Nỗi nhớ qua một số tác giả

 Kiệt Tấn

Không biết những nổi loạn, sống hết mình của Kiệt Tấn có ảnh hưởng gì đến con người tác giả không, vì truyện Em Điên Xõa Tóc chứng tỏ người viết truyện đã từng sống trong bệnh cảnh đó! Nói chung, tính chất tự truyện, hiện thực trong tác phẩm của Kiệt Tấn đã làm mạnh thêm tính lãng mạn và thi vị. Tựu trung chuyện ăn chơi, đam mê, lầm lỡ,... của nhân vật xưng tôi hay Kiệt đã là những tác phẩm khá thơ mộng và thành công để lại nơi người đọc sự quí mến, dĩ nhiên là với người đọc không đạo đức giả! Sống thật vì theo ông, hạnh phúc chỉ là một cảm giác. Cũng nên ghi lại đây quan niệm về truyện ngắn khác người của ông: "Tôi có quan niệm về truyện ngắn hay hoặc dở như sau: tôi tưởng tượng độc giả là người nữ. Khi sáng tác truyện ngắn, tác giả rủ độc giả làm tình. Nếu cả hai đều đã đời, truyện ngắn thành công. Nếu chỉ có một bên đã đời, truyện ngắn thất bại. Nếu không có bên nào đã đời, truyện ngắn thảm bại..." 

 Gần đây, cái sôi nổi, hết mình của Kiệt Tấn đã được thể hiện dưới một hình thức khác cũng vốn là sở trường của ông khi bắt đầu nhập làng thơ. Ông cho xuất bản tập trường ca Việt Nam Thương Khúc gồm 3100 câu song thất lục bát, tiếng ca những đau thương, hệ lụy thăng trầm của đất nước, của con người. Nguyễn Văn Sâm khi giới thiệu đã viết "Đó là cái không khí tình người bạt ngàn thương yêu gia đình và đồng loại của những nhân vật nạn nhân, đó là sự dẫy dựa cố thoát khỏi nghịch cảnh của những người bị con quái vật định mạng kéo vào lò tai ương. Đó là một hơi thơ trong suốt không bao giờ lạc vận, được phụ họa bằng những chữ dùng trang nhã mà chính xác. Dĩ nhiên tất cả tình tiết và sự kiện lịch sử xảy ra trước đây, người đọc đã cất kỹ trong ký ức sẽ được trí đón nhận trở về một cách thích thú vì Kiệt Tấn dùng những sự kiện đó làm nền cho câu chuyện của mình...". Xa những vần thơ thiết tha nhưng trầm buồn Ba Mén của Bình Nguyên Lộc, và xa hẳn những nổi loạn tâm hồn tuổi trẻ của những Điệp Khúc Trái Phá (1966): đêm hôm đó / khi trúng đạn người lính giận dữ / chửi thề / rồi phun ra một búng máu /sáng hôm sau /người nông dân mang cày ra đồng nhìn thấy vũng máu / chửi thề / rồi xẻ đường cho máu đi vào đất (Trong Cơn Binh Lửa).

 (Nguyễn Vy Khanh)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 “sâmsâm sấp. → không viết: xâm”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết chuẩn là “xăm xắp”, [nước] ở mức không đầy lắm, chỉ đủ phủ kín khắp bề mặt. nước xăm xắp mặt ruộng ~ “Nước sông trong veo lặng lẽ trôi, mùa lũ nước sông dềnh lên xăm xắp đôi bờ cỏ cây xanh tốt.” (Dương Hướng).

(Hòang Tuấn Công)

Bạn tôi, Trần Đông Phong

Thế rồi, đang lúc tôi lâm bệnh, tin xấu bay về sáng ngày Noel, Trần Đông Phong đã ra đi theo ngọn gió đầu mùa đông. Cũng như Mai Thảo, như Cao Đông Khánh và Như Phong đã ra đi những năm nào vào độ tháng Chạp này. Nhưng trước hết, tôi xin được theo Đinh Quang Anh Thái của báo Người Việt Cali ghi lại tiểu sử của Trần Đông Phong.  
“… Ông tên thật là Trần Đức Thắng, quê quán tại Quảng Trị, sinh năm 1937 tại Thanh Hoá, học tiểu học tại Quảng Trị và Pellerin Huế. Trần Đông Phong là giáo sư trường Trung Học Phan Thanh Giản Cần Thơ từ năm 1958 cho đến tháng 6-1963, trước khi bị động viên vào khoá 16 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. 

Ra trường Thủ Đức tháng 6-1964, Trần Đông Phong được đưa về làm Giảng Viên tại Trường Sinh Ngữ Quân Đội và sau đó biệt phái về làm việc cho tổ chức “Liên Minh Á Châu Chống Cộng” do bác sĩ Phan Huy Quát làm Chủ Tịch. Trong thời gian này (1969-1975), Trần Đông Phong là Chủ bút Nguyệt San Anh Ngữ “Free Front”, cũng từ năm 1971, ông là chuyên viên về Liên Lạc Quốc Tế của Liên Hiệp Nghị Sĩ Á Châu (Asian Parliamentarian's Union). Trần Đông Phong đã cộng tác với các báo Sống, (trong nước trước 1975) và Người Việt, Thời Luận, Nguyệt San Thế Kỷ 21, Văn Hoá (hải ngoại). 

(Nguyễn Xuân Thiệp)

 Gặp gỡ nhà văn miền Bắc

 Tôi ôm eo Nguyễn Huy Thiệp trên chiếc xe gắn máy của anh ta và chạy qua những con đường phố. Không có ý niệm về đường phố ở Hà Nội tôi không biết anh Thiệp đã chở tôi đi những đâu, qua những con phố nào, chỉ biết là anh chở tôi đi xa lắm tôi ngồi lâu trên xe ê cả mông đít. 


Từ nhà hàng ăn chúng tôi đến thăm nhà văn lão thành Tô Hoài, tác giả của tập truyện Con dế mèn phiêu lưu ký tôi đã mê say đọc từ hồi còn nhỏ. Chiều đến anh chở tôi về nhà anh ở vùng ngoại thành Hà Nội cuối cùng dừng lại trước căn nhà có bờ tường rêu bao quanh và có cổng gỗ kiến trúc giống như cổng một mái chùa hay ngôi đình làng. Nguyễn Huy Thiệp đẩy hai cái cánh cửa gỗ nặng nề dắt xe qua cổng. Bên trong mở ra một thế giới khác hẳn bên ngoài. Một khu tuy nằm trong lòng Hà Nội nhưng biệt lập rất đồng quê. Qua bóng rợp của một khu vườn cây rộng, toàn cây ăn trái, nào nhãn, nào ổi, nào khế... cây nào cây nấy nặng trĩu những quả, một con đường lát gạch dẫn tôi tới căn nhà hai từng nằm ẩn sau vườn, nơi mà “Không có vua” “Tướng về hưu”... cùng những tác phẩm khác của anh được thai nghén và sáng tác. 


Tối đó anh Thiệp mời tôi dùng cơm tại nhà anh. Tôi nhớ mãi bữa cơm rau ấy vì đã từ lâu lắm rồi tôi không được ăn một bữa cơm thanh đạm đầy mùi vị quê hương. Về khuya anh đưa tôi ra đầu ngõ đón xe về khách sạn. Anh nói trước khi chia tay: Văn chương nó bạc lắm anh ạ. Phần thưởng quí nhất có lẽ là qua nó chúng ta có được những người bạn mới ở khắp bốn phương.

 (Một trăm ngọn nến – Nguyễn Tường Thiết)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 : sập : không viết: ”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 “Xập xè” ít dùng, viết chuẩn là “xập xoè” (xập lại và xoè ra).

 (Hòang Tuấn Công)

 Người viết tiểu thuyết về con trâu

“Cha tôi chỉ viết về quê mình. Những nhân vật trong truyện dài, truyện ngắn của ông đều lấy nguyên mẫu ở quê nhà rồi gọi chệch là làng Cầm. Những người ở làng Cổ Am sống xa quê hương đọc truyện ông đều có thể nhận ra ngay nhân vật mà ông miêu tả, dù đã đổi tên, là những ai ở trong làng. Ông sống hàng ngày với nhân vật của mình. Và không phải chỉ người mà cảnh vật xung quanh cũng trở thành nguồn vui sống của ông” – (trích bài viết Cha tôi - nhà văn Trần Tiêu của Gs Trần Bảng).


Trần Tiêu sinh tại làng Úm Mạt (tức Cổ Am), huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Làng này nổi tiếng trong lịch sử bắt đầu từ triều Trần, khi đất Úm Mạt được phong cho một công chúa. Đây là vùng rừng ngập mặn, đồng chua nên ruộng lúa không được phát triển. Sau hơn 700 năm và hơn 20 thế hệ, Cổ Am vẫn lẫy lừng bậc nhất trong nước về truyền thống thượng võ và chống ngoại xâm. Mối quan hệ tinh tế và sâu đậm giữa địa linh nhân kiệt và hình sông thế núi cùng cây cỏ chim muông tạo nên một môi trường sinh thái tròn trịa. Bản thân gia thế của Trần Tiêu (cả bên vợ) cũng ở trong một truyền thống kết hợp được cả Nho học, Phật học và Tây học. Nên khi viết Con trâu và các tác phẩm khác, ông đã thể hiện được các nét đặc trưng của các truyền thống này.


Đầu thập niên 1930  đã mở màn cho khuynh hướng tả thực và xã hội trong văn học, với các ngòi bút khá tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Mạnh Phú Tư và Trân Tiêu. Con trâu được “khai sinh” ở làng Cổ Am và kể về chuyện của làng Cổ Am, nhưng có tính cách biểu tượng chung. Đây cũng là tiểu thuyết đầu tiên viết về con trâu.

 (Nguyễn Tiến Văn)

 Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả

 si: nguyên si. → không viết: xi”. (Gs Nguyễn Văn Khang)

 Viết “xi” mới đúng. Vì “xi” [cire] gốc Pháp, có nghĩa chất làm bằng cánh kiến pha lẫn tinh dầu, dùng để niêm phong bao, gắn nút chai lọ, v.v. Xi gắn nút chai. ~ Đóng dấu xi”. Khi ta nói còn “nguyên xi”, tức còn nguyên dấu gắn xi, chưa mở ra, với nghĩa rộng như “nguyên xi” còn nguyên như mới, như hoàn toàn chưa dùng đến. 

 (Hòang Tuấn Công)

 Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ

 * Anh sáng tác thơ từ bao giờ? Anh vẽ vời hồi nào?

- Trẻ con nào mà không vẽ? Mình chẳng phải ngoại lệ. Sau ni, nhiều lúc trơ trọi một mình, càng hì hục vẽ. Do không qua đào tạo, nên lắm phen mình rất lúng túng khi xử lý chất liệu. Như thuở mới chơi bột màu, mình không biết hoà trộn với keo dính nên vẽ xong một thời gian ngắn, bức tranh bị bong lở tả tơi!

Còn thơ, mình bắt đầu mần từ năm 1959, lúc học lớp đệ tam, bữa ni là lớp 10, trường Quốc Học. Với báo chí thì từ thời học sinh, kéo dài sang thời sinh viên, mình đã viết bài đăng tập san Lành Mạnh. Chẳng hạn loạt bài điểm sách, như điểm các tập thơ Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Hoa cô độc của Ngô Kha, v.v.

 * Kỷ niệm của anh về thuở lên rừng rồi ra Bắc?

- Tại Huế, mình với Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Lê Văn Sắc, v.v., in và rải truyền đơn chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bị lộ, cảnh sát lùng sục, rứa thì mình phải lên xanh vào tháng 6-1965. Ở trên rừng, quá nhớ Huế, nhưng mình chẳng được về Huế, ngay cả dịp Tết Mậu Thân 1968. Chẳng may mình bị thương, lại thêm loét dạ dày, phải ra Bắc điều trị năm 1970. Hồi ký Tôi bị bắt do mình viết năm 1993 đã kể lại thời gian mình bị rơi vào hoàn cảnh quá đỗi éo le tại miền Bắc từ năm 1972 đến mãi sau này.

* Kể tí chút về bà xã Nguyễn Thị Hay và các con được chăng?

- Hay rất… hay. Nàng người làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang. Cha nàng lại là trung tá chế độ cũ, từng làm quận trưởng Phú Vang. Tháng 1-1976, hai đứa cưới nhau. Lúc đó, Hay học lớp Y tế xã ở trường Trung học Y tế Bình Trị Thiên. Năm 1977, đẻ con gái đầu lòng, tên thân mật là Bồ Câu, giấy tờ thì Nguyễn Cát Hiên. Đầu năm 1980 thì nàng nghỉ làm y tế, ra Vinh (Nghệ An) buôn bán nào cà phê bột, nào phân đạm, nào bút chì, nhưng lỗ nặng, bèn về Huế bán lẻ thuốc lá và bánh kẹo, rồi buôn bán trái cây, rồi gánh thuê nước đá tại chợ Đông Ba, rồi nấu bánh canh bán nhiều nơi nhằm mưu sinh qua ngày.

(Phanxipăng)

Vì sao tiểu thuyết quốc ngữ miền Nam Bộ chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt?

 Việc xuất hiện Hà Hương phong nguyệt, theo Lê Hoằng Mưu là một phản ứng, là lòng tự trọng của một nhà văn Việt Nam trước cơn sốt dịch “truyện Tàu” lúc đó. Lê Hoằng Mưu sau này đã tâm sự: “Dòm thấy trong xứ cứ ôm truyện Tàu mà dịch mãi, chưa thấy ai viết bộ tiểu thuyết nào cả. Tưởng rằng dầu hay dầu dở cũng của mình. Tôi khởi đầu viết bộ Hà Hương phong nguyệt”[

Ý kiến của Bằng Giang cho rằng tiểu thuyết chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt, trước hết đó là ở dung lượng của tác phẩm. Ba tác phẩm của miền Nam được xuất bản trước đó là Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản chỉ dài 32 trang, Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Chánh Chiếu được 54 trang,  Phan Yên ngoại sử - Tiết phụ gian truân (1910) của Trương Duy Toản cũng chỉ 49 trang. Tất cả là truyện ngắn, không phải tiểu thuyết nên không còn gây tranh cải

Hà Hương phong nguyệt so với ba tác phẩm trên có số trang dày dặn hơn nhiều (tập 6 đã dài đến 284 trang), in trên báo Nông cổ mín đàm kéo dài đến 4 năm vẫn chưa kết thúc (từ 1912 đến 1915), điều rất khó hình dung trong giai đoạn này. Tác phẩm gồm có 2 phần gần như độc lập. Phần đầu gần bốn tập, chủ yếu nói về những cuộc phiêu lưu tình ái của nàng Hà Hương xinh đẹp đa tình, trong đó quan hệ giữa Hà Hương và Nghĩa Hữu là quan hệ  chủ yếu. Phần hai chủ yếu kể về cuộc đời của Ái Nhơn, con trai của Hà Hương và Ái Nghĩa, vì thế có trường  hợp đã hiểu nhầm rằng phần hai là văn bản của một truyện khác[8].

(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học – Võ Văn Nhơn)

Một phần tuổi thơ...

 Hồi đó ra giêng khoảng tháng 2 cả đám con nít thường ra đám ruộng dính liền con rạch nhỏ ở phía sau chùa Hưng Minh Tự để bắt cá lia thia.

Cá lia thia thường sống ở vùng đất có cây năng và nước thì không sâu lắm, chỉ qua khỏi mắt cá chân một chút. Đồ nghề là một hủ đựng chao bằng thuỷ tinh loại tròn dung tích khoảng từ 1 lít trở xuống và một cái rổ đan bằng tre, thời đó hình như chưa có hoặc hiếm có rổ bằng nhựa như bây giờ.

 Muốn bắt cá lia thia thì đặt cái rổ xuống chổ đất ruộng hơi thấp 1 chút xong cúi xuống dùng bàn chân dẫm lên cỏ năng cho cá trốn trong bụi năng chạy ra. Trời nắng chang chang dậm mấy tiếng đồng hồ, hôm nào hên lắm được vài con.

Nếu bắt được con nào mà màu xanh dương lặt lè nghĩa là xanh lè, xanh lét thì tụi tôi gọi là lia thia. Còn nếu con nào hai màu xanh đỏ lộn xộn thì gọi là bãi trầu. Bãi Trầu đá dở ưa bỏ chạy nên đám con nít tụi tôi không khoái lắm.

 (Trần Ngọc Hiếu)

 Tiếu tự thư sinh lạc đệ thì

 “Lạc đệ thì” ở đây không có nghĩa là “lạc đề thi”.

Thì khi, là lúc. “Lạc đề” là “thi hỏng”. Toàn câu có nghĩa ”cười như thư sinh khi hỏng thi”. Nghĩa là cười không…vui.

Chữ nghĩa làng văn

 Mai Thảo và tạp chí Văn - 1

 Đó cũng là nơi, hằng đêm, vào những khuya khoắt, ngầy ngật ra khỏi giấc ngủ chập chờn, ông trở dậy, bước đến chiếc tủ lạnh, với tay cầm chai rượu rót ra ly... Và giữa tịch mịch của đêm sâu, giữa lũ bàn ghế chăn giường sách vở câm nín vô hồn, trước màn ảnh tivi xanh đỏ, trong tay ly rượu hết vơi lại đầy, ông vừa uống vừa kiên nhẫn chờ đợi một ngày mới. Một ngày như mọi ngày! "Đêm, không ngủ được, chỉ mê đi vài tiếng, rồi lại thức, lại uống - cười - không uống thì làm gì?"

Hỏi, như một lối chấm câu, để tiếp: "Uống mãi vẫn chả hết đêm... Thì bày chén bát soong nồi ra, ta nấu gói mì, ta luộc quả trứng. Thế là vừa uống vừa ăn vừa xem TV. Hừm... thích lắm" Một lần, thích. Hai lần, thích. Ba bốn năm sáu lần, có thể còn thích. Nhưng như thế, đã bao nhiêu năm (mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày) Chúng ta hãy tưởng tượng đi. Một mình, với đêm.

 

(Khánh Trường)

Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai

 Thời cuộc buộc Văn học miền Nam phải chấm dứt năm 1975, tôi cho đó là phải lẽ vì không thể nào có một biến động xã hội lịch sử lớn lao ảnh hưởng đến cuộc sống con người xảy ra mà văn học không chuyển mình thay đổi, chấm dứt một thời kỳ để bước qua một thời kỳ khác. Vấn đề chỉ là nó đã chấm dứt ra sao, ở đây có thể nói ngay là hết, không chuyển hướng không đẩy lùi cái cũ tiếp thu cái mới không thêm vào một khuynh hướng một đường lối gì cả, chấm hết. Hết.

 

Và nó đã được bảo tồn thế nào cho thế hệ chuyển tiếp. Tôi nói bảo tồn, vì văn học cùng với giáo dục cùng với tập quán sinh sống cùng với tục lệ xã hội là những thành tố của văn hóa dân tộc, văn hóa một miền đất một nhóm con người, không bảo tồn để cho nó mất đi thì kể như lịch sử bị đục thủng bị đứt đoạn, quá khứ bị xóa nhòa, ai biết ai là ai, chúng ta liên hệ với nhau ra sao, làm sao để tôi thấy được người?

 

Thấy người

Thấy người, chẳng phải tôi không thấy người. Còn người còn chữ viết, chả phải không thể thấy. Chỉ là, tôi phải thấy nền văn học cũ qua hoài niệm của những người đi trước, của thế hệ đàn anh hơn tôi một giáp, mươi mười lăm tuổi. Tôi chỉ thấy Mai Thảo, Sáng Tạo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, thầy triết Nguyên Sa, thầy triết Nguyễn Xuân Hoàng…

Cả một rừng chữ với người đâu phải chỉ có bấy nhiêu tên? Bậc đàn anh tôi đã đi qua rất nhiều, đã thu nhận biết bao nhiêu, sao chỉ lập lại mãi hoài mấy tên tuổi đó, và cũng chả ai nói được điều gì mới, có đủ ý nghĩa về một tác giả, ngoài những tiểu sử, những vụn vặt bên lề, những hào quang đã tỏa những vương miện đã được trao. Tôi khát khao biết tại sao văn Mai Thảo hay, tại sao người ta chỉ biết có Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, tại sao các thầy triết Nguyên Sa, Nguyễn Xuân Hoàng mới đáng nhắc. Không phải thầy Nguyễn Văn Trung mới thực đã góp nhiều công mang khái niệm triết học đến cho sinh viên thời ấy?

 

Tôi đi tìm tôi tìm người trong văn học cũ, lòng ngao ngán ê chề, vì tôi thì còn nhỏ, còn ngu, và người thì dường mang nhiều quên lãng, quên quá khứ, quên nhau? Tôi hậm hực, người ta càng tung hô, tôi càng không đọc Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. Cũng còn may tôi biết mê Võ Phiến, văn Võ Phiến không cần sự tung hô hay giới thiệu, ngày ngày chờ Văn Học Tổng Quan in ra được cuốn nào thì rước về cuốn đó…Cái trò trẻ con ấy tôi làm với tất cả thành kính, vì chứa trong đó là dĩ vãng của tôi, của biết bao người. Nhưng tôi vẫn không thấy người.

 

(Văn học miền Nam, điều sót lại – Lưu Na)

 Phê bình nhất định là khó

Ở Hà Nội có trường viết văn Nguyễn Du, trong đó có hai ban: ban sáng tác, ban lý luận phê bình!  Ban phê bình cho ra hàng ngàn nhà phê bình (gớm làm sao mà nhiều thế). Nhà phê bình dĩ nhiên là không biết sáng tác, thường không nêu ra thành tich đã phê bình bao nhiêu cuốn, bao nhiêu người, mà thường chỉ xưng là tiến sĩ lý luận, giáo sư lý luận, giáo sư đầu ngành về lý luận (!)

 

Hầu hết các nhà phê bình nào đã dám phê ngay tác phẩn mới ra lò đâu! Họ thường phải nghe ngóng xem trên có ý kiến có chỉ đạo gì không. Khi dư luận đã xôn xao rồi thì họ vội vàng phê bình ngay kẻo mất phân (!)  Khi Nguyễn Huy Thiệp đã nổi tiếng rồi, họ bèn nắm lấy cái đuôi con chuột của Nguyễn Huy Thiệp: “Có con chuột to bằng bắp chuối chạy ra sân… cười hềnh hệch “ họ bèn khen là tuyệt cú mèo (!) Cái đó thì ông Thiệp cung ngón tay út búng ra cả đống. Cái đó chỉ là tiểu xảo, đâu phài Coeur de Thiep.


Ông Hoàng Ngọc Hiến khá nổi tiếng, hình như không phài nhà phê bình chuyên nghiệp. Khi nói về Nguyễn Huy Thiệp, ông viết nhiều câu như là khen và cuối cùng kết rằng: “Tôi không chúc bạn thành công”. Bà Đặng Anh Đào một người viết bình thường, không nổi tiếng, đã rất thông cảm khi ông Thiệp bị nhiều búa rìu. Bà là người không có vai vế nên bà viết như là không khen, nhưng đọc kỷ thì thấy bà khen. Trái lại, ông Hoàng Hgọc Hiến dùng từ ngữ lớn lao, như là khen, nhưng đọc kỹ thì thấy là không khen! Ấy! Đại khái những nhà phê bình không chuyên nghiệp thường e dè, kín đáo.

 (Chân Diện Muc)

 Gặp gỡ “văn học” Sài Gòn giải phóng

 Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có

 Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo.

Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi

 (Sài Gòn gải phóng tôi – Nguyễn Quang Lập)

 Khoa trương trong ca dao của người Việt

Ngoa dụ vừa mang chức năng nhận thức vừa mang chức năng biểu cảm. Nó được dung trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, từ khẩu ngữ tự nhiên, ngôn ngữ chính luận cho đến ngôn ngữ nghệ thuật.

Ngoa dụ có thể dùng trong châm biếm. Ở đây, cường độ qui mô của cái xấu lên thì mâu thuẫn sẽ bộc lộ ra rõ nét hơn. Ví dụ:

Con rận bằng con ba ba

Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh

Ngoa dụ cũng có thể được dùng trong văn thơ trữ tình. Qui mô của hiện tượng được phóng đại lên, tuy nó quá sự thực nhưng được xây dựng trên cơ sở của tình cảm chân thật. Ví dụ:

Chim khôn thì khôn cả lông

Khôn cả cái lồng người xách cũng khôn.

(Nguyễn Ngọc Kiên)

 Những ngôi chùa Bắc

 Chùa Yên Tử

 ù ai quyết chí tu hành

Có về Yên Tử mới đành lòng tu.

 Hai câu thơ trên cho thấy dân chúng khắp nơi đã mến mộ cảnh trí uy nghiêm và công đức tu trì của ngôi chùa nầy qua bao nhiêu thế kỷ là nhường nào! Chùa Yên Tử có nhiều liên lạc mật thiết với vua Trần Nhân Tông (1258-1308) một vị vua có nhiều công trình dựng nước đồng thời cũng trở thành một vị chân tu.

 Chùa nằm vùng giáp giới của những tỉnh Hải Dương, Bắc Giang và Quảng Yên, ở vào vị trí cách thị xã Uông Bí (thuộc Quảng Ninh) chừng 15 cây số về phía Tây Bắc. Yên Tử là một đỉnh núi cao nhất trong vùng sơn lâm hiểm trở nầy và cũng là nơi u tịch nhất của vùng Hải Đông ngày trước.

Vua Trần Nhân Tông trong giai đoạn đầu tiên trên bước tu hành đã nương náu tại của nầy trong một thời gian ngắn.  Vào trong nữa là suối Giải Oan, có ngôi chùa Giải Oan  Đây là đường đi đẹp nhất trong vùng nầy. Hai bênđường có trồng nhiều cây thanh tùng, thủy tùng và xích tùng.

Nhìn tổng quát thì chùa ở lưng chừng núi. Cửa chính điện được xây theo kiểu hình chữ nhật trong thế cuốn lại. Gạch đều được chạm trỗ những thể hình đầu rồng, đuôi phượng, bố cục khá cân đối.  Mỗi tầng có mái lợp cong uốn vồng ra phía trước, đưa tiền đình vươn rộng ra. Đỉnh tháp là chỏm nhọn trên đó có khắc hình những chim trĩ xoè cánh, chim phượng quay đầu.

 Trong Đại Nam Nhất Thống Chí ghi về kiểu kiến trúc nầy: 

Ngày trước, còn xây cột đá ở bên cạnh, sau đó hàng  trăm người thợ đã dựng lên; rồi dùng dây đồng để ràng lấy đỉnh tháp.  Chỏm tháp cũng được trang điểm những hoa văn nhỏ cực kỳ tinh vi làm bằng đồng.  Những di tích nổi tiếng nầy, trải qua nhiều thương hải tang điền, thì nay đã không còn lại là bao nhiêu nữa.

(Kiêm Thêm)

 Cây cơm nguội

 Phố Trần Hưng Đạo có rặng sấu sum suê, tán tròn, xanh quanh năm. Phố Lò Đúc có hàng sao đen cao vút, thân thẳng tắp, đầy bóng mát. Phố Hàng Dầu có hoa sữa, nay còn thêm dâu da xoan.

Đặc biệt phố Lý Thường Kiệt và phố Đinh Tiên Hoàng, có hàng cây cơm nguội.

Cái tên xấu xí, nhưng nó có vẻ riêng, không cây nào sánh được. Nó còn có tên nữa là sếu. Hình như chỉ Hà Nội mới có nhiều cây này. Bóng mát lăn tăn, mùa hè xanh ngát. Mùa đông rụng hết lá, cành trơ ra từ to đến nhỏ trong sương mờ, trong mây bạc nhìn cành khẳng khiu mà tưởng ta đang đi trong tranh thuỷ mặc.

 Tháng mười, khi hoa sữa toả hương trong đêm thì lá cơm nguội vàng au, bay đầy mặt đất. Thu đã đến hẳn rồi Hà Nội ạ.

(Vô danh thị)

 Để nhớ lại một thời

Xe thổ mộ tại Sài Gòn xưa


 

Không biết ai đã chế ra chiếc xe ngựa này, nó xuất hiện trong thành phố Sài Gòn và những vùng quê lân cận từ thậpniên 40.

 Hồi đó lính biện chà, lính Tây kêu xe đó là boite d' allumettes (xe hộp quẹt) hay bình dân hơn họ cũng gọi là xe "tac a tac", người mình kêu nó là xe thổ mộ vì cái thùng liền với cái mui cong cong giống như một cái mả đất. Nhưng nguồn gốc tên xe thổ mộ này có một giả thuyết khác là tên gọi thổ mộ xuất phát từ tiếng Quảng Đông "xe độc mả" người Tàu đọc là “thu ma” rồi bà con mình gọi trại ra là thổ mộ.

 Xe ngựa còn gọi là xe thổ mộ, dùng để chở người đi lại trong vùng hay vận chuyển hàng rau cải từ những vùng quê lên Sài Gòn. Mỗi khi có việc đi lại trong vùng, cưới xin, người ta đều chọn phương tiện xe ngựa vì tính tiện lợi của nó. Thời điểm lúc bấy giờ, xe ngựa người ta có thể lên xuống bất kỳ chỗ nào.

 (Khuyết danh)

 Một góc Sài Gòn xưa

 2 giờ sáng ngày 16/12/1799, một đám rước trọng thể theo nghi thức công giáo thi hài đức cha từ dinh Tân Xá về nhập lăng. Chúa Nguyễn Phúc Ánh từ Qui Nhơn cũng đã vào để tham dự lễ an táng. Như vậy, đức giám mục Bá Đa Lộc đã yên nghỉ tại đây gần 2 thế kỷ. Năm 1980, lăng Cha Cả được lệnh giải tỏa. Công cuộc cải táng kéo dài đến năm 1983 mới hoàn tất. Những xương cốt của đức cha và những người khác chôn tại đây được bàn giao cho tòa lãnh sự Pháp.

 Có người cho rằng khi khai quật không thấy xương cốt mà chỉ có cây thánh giá bằng vàng tây lớn mà giám mục đã từng đeo khi xưa, chiếc gậy vàng biểu tượng của chức giám mục và những mề đay của nhà nước Pháp và Việt trao tặng. Cũng từ thông tin này, ngày 13/3/1925 công sứ Pháp đã cho khai quật và tìm thấy dưới huyệt có một ít xương và răng.

 Như vậy Lăng Cha Cả ở Sài Gòn chỉ là mộ gió nhằm ngăn ngừa tình huống xấu có thể xảy ra.

 (Trân Chánh Nghĩa)

 Thành ngữ tục ngữ…sai

 Con đóng khố, bố cởi truồng 

Tả cảnh nghèo khổ của người dân.

 

Đây là câu đố về cây măng và cây tre. Cây măng non (con) đang được bọc trong những chiếc mo nang (giống như đóng khố), cây tre già (bố) mo nang đã bong ra và rơi đi (giống như cởi truồng). Có lẽ GS cho rằng vì nghèo khổ nên cha phải nhường khố cho con mặc chăng? Nhưng trong thực tế không hề có chuyện này. Trái lại, vì con còn nhỏ nên cởi truồng, bố (và ai cũng vậy) là người lớn phải đóng khố, dù nghèo khổ đến đâu.

 (Hoàng Tuấn Công)

Cua cáy phiếm lược

    cua đồng

 


Bắt cua bỏ rọ, cua nhỏ, ta gọi là cua đồng. Nhỏ hơn cua đồng có con cua dẹp, con rạm, con cáy, con còng, đam (đồng), cà ra, chù ụ, cù kỳ, và còn nhiều nữa như sau này…

Khốn khổ một nhẽ người tầm khảo mỏng chữ lại không chịu hiểu con đam, con cà ra, chù ụ, con cù kỳ…kỳ cục là giống giuộc gì. Nhồi chữ như nhồi rơm nhồi rạ thì hậu bối, hậu duệ của cua đồngcon cáy, con còng nhỏ nhít đều bắt đầu bằng chữ…“c”.

 Với con cà ra,…cà rà tới Hải Dương mới hay biết con cà ra họ hàng hang hốc với con rạm. Cà rahai chiếc càng nhỏ8 cẳng như ai. Sau này “chạch bỏ giỏ cua” mới ngộ chứng ra mỗi con là hậu thân của mỗi địa danh nào đó. Thảng như người vịnh Hạ Long, Móng Cái cứ ngỡ “con cù lần” chỉ miền Nam miệt vườn mới có. Rồi khi hay biết đất mình có “con cù kì”, rối chữ hơn nữa còn gọi là cua sấm, cua đá, cùm vùm. Từ Bắc xuống Nam, qua miền Trung vào tới Quảng Ngãi, người Quảng Ngãi bã bời với con cua dẹp ở Cù Lao Chàm gọi là cua đá vì họ không hay. Vào tới miền Nam người Biên Hòa có suối Lồ Ồ, núi Bửu Long, Châu Thới ngớ ra mình cũng có…cua dẹp sao? Bởi chưng người xứ Bưởi cũng như người Quảng không hề hay biết cua dẹp là cua đá, cua núi.

 cua len lỏi trong hốc núi

nên thành…cua dẹp chăng?

 Lạc đường lịch sử đến Trà Vinh, người Trà Vinh ăn ngay nói thiệt ở miền có “con cá gô, bỏ trong gổ, nhẩy gọt gẹt” kệ tía họ. Riêng xứ tôi từ thời xứ “Thủy Chân Lạp” thuộc Khờ me, thiệt tình đã có…con chù ụ.

 Hòm hõm với con còng tốn chữ nghĩa không phải là ít, vì còng còn có còng gió chạy như…gió nữa. Đào sâu chôn chặt tục ngữ ta có câu “nhát như cáy ngày”, có thể vì vậy cáy lủi, chạy rất nhanh như…còng gió chăng. Cũng với tục ngữ “đời cua, cua máy, đời cáy, cáy đào” nên cáy…đào hang là thế.

 Đám ma Lý Toét 

Trước lúc đưa đám, bà Lý đã cẩn thận giao phó cho người ở nhà trông nom xôi thịt, sửa soạn cơm rượu đãi làng. Vậy mà lúc về vẫn thấy mất mát, suy suyển. Đại khái năm miếng thịt bỏ vào luộc thì lúc vớt ra còn bốn, hay ba. Nhiều mâm xôi bị khoét giữa hay vẹt cạnh. Một thúng gạo mang ra ao vo thì lúc về còn nửa. Những người làm giúp được dịp ăn cắp. Người coi có biết cũng phải ngơ, sợ mất lòng, họ bỏ về. Trong khi có việc, họ đến cho là quý.

Chẳng mấy lúc làng đã họp đông. Trong nhà, ngoài sân đông chật, từ các bô lão sáu bảy mươi, cho tới lũ trẻ lên sáu, lên bảy. Đứa nhỏ quá thì đã có người nhà, hoặc anh nhớn bế đi. Họ khỏa chân ở cầu ao trước cửa rồi vào nhà ngồi đợi. Mấy hồi lệnh inh ỏi giục người đi chậm. Trong nhà không đủ chỗ, phải giải chiếu ra hè cho lũ trẻ; không đủ chiếu, chúng ngồi ngay xuống đất.

 Tiệc rượu bắt đầu. Trẻ con xúm quanh những mâm gỗ vuông, đầy những đĩa thịt luộc còn đỏ, đĩa xôi đơm điêu, bát nước dùng trắng nhợt và vẩn đục, đĩa rau cải xanh. Chúng ăn ngốn ngấu, gọi cơm om sòm. Chúng chỉ ăn dưa và nước canh, xôi thịt để dành phần mang về. Bên cạnh mâm đã sẵn ít tầu lá chuối. Chẳng mấy lúc, bụng lũ trẻ đã thẳng căng, chúng lẻ tẻ ra về.

 (Đỗ Đức Thu)

 Tác giả: Đỗ Đức Thu sinh ngày 28-12-1909 tại Thái Bình, nguyên quán quê ông ở làng Mọc, huyện Thanh Trì, Hà Đông. Thuở nhỏ, ông học ở Thái Bình, ở Hà Nội, rồi bỏ học sau lần bãi khóa để tang chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Từ đó, ông viết văn. Ông gia nhập nhóm Tự lực văn đoàn năm 1936, sau lần truyện ngắn của ông được tặng giải khuyến khích của văn đoàn này và viết nhiều truyện ngắn đăng trên báo Ngày Nay.. Sau 1954, ông vào Sài Gòn. Ông mất ngày 5-3-1979 tại Tân Định, thọ 70 tuổi.

Tác phẩm: Vỡ lòng (tiểu thuyết) NXB Đời Nay, Hà Nội 1940, Nhà bên kia (tập truyện ngắn) NXB Công Lực, Hà Nội, 1943.

 “lắm”

 Chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm mới nói

Chữ “lăm” là rắp, toan, tính toán, suy nghĩ. Con chó trước khi nằm xuống bao giờ cũng đi vòng vòng hai ba vòng (khoanh). Người thì phải suy nghĩ hai, ba lần nói. Ý nói việc gì cũng phải cẩn trọng.

 (Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)

Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ

 Bản dịch thứ hai là của nhà thơ Karl Petit, in trong cuốn La poésie japonaise (Ed. Seghers), mà theo ông Nguyễn Vỹ là Karl Petit đã dịch đảo ngược, nhưng lại đúng với nguyên văn bản tiếng Nhật:

Aux profondeus de la Montagne

Ecartant et foulant les feuilles des érables

Le cerf brame

Et à l’entendre ainsi

Ah! que l’ automne m’est

lourdement triste!

(Ở những nơi sâu thẳm của núi

Làm tung toé và dẫm lên những chiếc lá thích

Con hươu đực thé lên (rền rĩ, kêu trong mùa giao phối)

Và nghe thấy điều đó như thế

Chao ôi, mùa thu với tôi buồn nặng trĩu).

(Trần Đăng Khoa)


 

Tiểu sử : Trần Đăng Khoa sinh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện đang ở Hà Nội.

Tác phẩm: Chân dung và đối thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay

 

60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh biệt Hải Phòng

 Cha mẹ tôi không có ý định di cư vào Nam. Cha mẹ tôi nguyên là con nhà nông thuộc giới điền chủ. Ông bà cùng sinh ra vào khoảng năm 1910, và lớn lên ở làng Trình Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Cha tôi là con trai duy nhất trong một gia đình gồm năm chị em. Ông học lực chỉ xong được bằng tiểu học, và với tí vốn liếng học thức đó, ông được bầu làm lý trưởng, hay xã trưởng, thời vua chúa xưa là hương mục, có trách nhiệm trông coi tài sản công và tư của làng. 

 Hồi còn nhỏ tôi nghe mẹ tôi kể chuyện là, vì ông có máu mê cờ bạc, nên có cái triện để đóng dấu trên những giấy tờ sang nhượng ruộng đất bà nội tôi nắm giữ luôn, còn cẩn thận cuốn trong ruột tượng quấn quanh bụng suốt ngày đêm cho chắc ăn, để ông không tự do bán ruộng đất của gia đình. Do đấy, mỗi lần có ai tới xin ông lý trưởng đóng nhận một sang nhượng bất động sản nào đó, ông lại phải nói với mẹ cho mượn cái triện. Có lẽ cái say mê nhất của ông là xe hơi và máy móc mà những lần ra tỉnh chơi ông đã thấy, và có để ý theo giõi việc làm ăn của một ông chú của tôi, chủ một hãng xe đò ở Hà Nội. 

 Tôi không nhớ ông bà quyết định dọn ra tỉnh (vì chỉ có ở tỉnh ông mới được thoả mãn lòng say mê máy móc xe hơi) vào năm nào, song căn cứ vào năm và nơi sinh, là tỉnh Sơn Tây, của các anh chị kế tôi, thì có lẽ vào khoảng năm 1940 hay trước đó đôi năm. Tóm lại trong đám anh chị em 11 đứa tụi tôi thì ba người đầu sinh ở quê, năm người, trong đó có tôi là thứ bẩy, ra đời ở Sơn Tây, và ba đứa em cuối cùng sinh ở Hải Phòng. Thoạt đầu cha tôi làm công cho người ta. Dần dà ông tậu được một cái xe chở hành khách, dậy anh Cả và vài người cháu trai đồng lứa học lái, sửa xe và đi theo làm lơ xe. Có lần, cũng theo lời kể của mẹ tôi, chiếc xe đò của ông bị quân đội Pháp trưng dụng đi sang tận bên Miên, Lào mà mẹ tôi không được tin tức gì tới hai tuần, cuối cùng ông về kể chuyện bà mới hay. Ông làm ăn vất vả nuôi một bầy con lúc nhúc. Cũng nhờ sự chịu khó cần cù của ông mà hồi xẩy ra nạn đói năm 1945 giết chết cả triệu người miền Bắc, gia đình tôi lớn bé không có ai bị thiếu ăn cả. 

 (Trùng Dương)

 ***

 P đính I

 

40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn

Tổng hợp từ nhiều nguồn)


Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012)

 
Ông sinh ngày 4-1-1940 tại Bình Định. Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn).

 Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, ông được đổi vào Quy Nhơn làm hiệu trưởng trường Cường Để.

 Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường Một Chiều của ông được giải thưởng Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Tháng 11 năm 1981, sau khi vừa viết xong trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ, ông cùng con trai vượt biển, đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa Nản Chân Bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa Biển Động.

Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, cộng tác với các báo: Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật.

Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện bị ung thư gan.

Ông đã qua đời ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.

 **    *Ảnh :  Phát Thưởng 29/4/1975

 
Mời Xem :

Chử Nghĩa Làng Văn kỳ 1/1/2025 - Ngô Không Phí ngoc Hùng