1 thg 7, 2020

Góc Việt Thi : Thơ THÁI THUẬN



        Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà 義和, hiệu Lục Khê 陸溪, biệt hiệu Lữ Đường 呂塘, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở nội các viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm tham chính ở Hải Dương. Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó Nguyên Súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495.
       Tác phẩm còn lại: Lữ Đường di cảo thi tập 呂塘遺藁詩集 (Tập thơ di cảo của Lữ Đường) gồm hơn 200 bài thơ do con trai là Thái Khác 蔡恪 và học trò là Đỗ Chính Mô 杜正謨 sưu tầm biên soạn.

                Sau đây là một số bài thơ tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến.

1. Bài thơ HẠ CẢNH :

    夏景                             HẠ CẢNH
南風庭院日如年,    Nam phong đình viện nhựt như niên,
面對書窗古聖賢。    Diện đối thư song cổ thánh hiền.
傍砌榴花紅噴火,    Bàng thế lưu hoa hồng phún hỏa,
入簾草色綠生煙。    Nhập liêm thảo sắc lục sanh yên.
元亨理契庖犧易,    Nguyên Hanh lý khế Bào Hy dịch,
康阜功歸帝舜絃。    Khang Phụ công quy Đế Thuấn huyền.
千古道心呼得起,    Thiên cổ đạo tâm hô đắc khởi,
槐龍影裏夕陽蟬。    Hòe long ảnh lý tịch dương thiền !
         蔡順                               Thái Thuận
 * Chú Thích :
    - HẠ CẢNH 夏景 : Quang cảnh của mùa hè.
    - Nam Phong 南風 : là Gió Nam, gió thổi mát mẻ vào những buổi trưa hè. NAM PHONG CA là "Bài ca gió nam". Bản đàn như lời ca dao mà vua Thuấn ngày xưa thường đàn để nói về đời sống của nhân dân với các câu : "Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề 南風之薰兮,可以解吾民之慍兮。" Có nghĩa : Cái mát mẻ ấm áp của gió nam có thể giải tỏa được lòng u uẩn sầu muộn của dân ta. Do câu nói nầy mà cụ Phạm Quỳnh ngày trước đã đặt tên cho tạp chí của mình là NAM PHONG TẠP CHÍ.
   - Bàng Thế 傍砌 : Bên cạnh các bậc thềm nhà.
   - Nguyên Hanh 元亨 : là NGUYÊN HANH LỢI TRINH 元亨利贞, là lời từ của quẻ Càn trong kinh Dịch. Có nghĩa : NGUYÊN là Bắt đầu; HANH là Thông suốt. LỢI là Lợi lộc. TRINH là Đứng đắn ngay thẳng. Nên Nguyên Hanh chỉ sự tốt lành nói chung.
   - Bào Hy 庖犧 : Tức vua Phục Hy (4500 tr CN), một trong Tam hoàng ngũ đế, thánh nhân thời tiền sử Trung Quốc, thuỷ tổ của Kinh Dịch.
   - Khang Phụ 康阜 : là vế sau của Nam Phong Ca đã nêu ở trên : Nam phong chi thời hề, khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề 南風之時兮,可以阜吾民之財兮。Có nghĩa : Cái đúng lúc của gió nam có thể làm cho dân ta giàu có.
   - Đế Thuấn huyền 帝舜絃 : Dây đàn của vua Thuấn, tức là Tiếng đàn của vua Thuấn.
   
* Nghĩa Bài Thơ :
                               CẢNH MÙA HÈ
        Gió nam thổi hiu hiu vào sân nhà trong mùa hè làm ta cảm thấy ngày dài ra như một năm. Đối diện với song cửa để sách vở của thánh hiền ngày xưa. Bên cạnh các bậc thềm nhà hoa lựu nở đỏ thắm như đang phun lửa. Màu cỏ xanh hắt vào rèm như sương như khói. Nguyên Hanh Lợi Trinh là cái lý ăn khớp với Dịch lý của Bào Hy (trong quẻ Càn thuộc thuần dương như cái nóng của mùa hè). Cũng như lời ca Khang Phụ trong Nam Phong Ca là công của tiếng đàn của vua Thuấn (có thể giải đi phiền muộn u uẩn và làm cho người dân sống sung túc hơn). Tiếng ve ra rả trong buổi chiều nắng xế trên các cây hòe có thể gọi dậy lòng trọng đạo thiên cổ của nhân dân.

* Diễn Nôm :
                           CẢNH HÈ
                 Ngày dài sân vắng gió nam đầy,
                  Song sách thánh hiền xưa vẫn đây.
                  Lửa lựu lặp lòe chen thềm vắng,
                  Cỏ xanh mờ ảo phủ rèm đầy.
                  Nguyên Hanh dịch lý Bào Hy đó,
                  Khang Phụ tiếng đàn Đế Thuấn đây.
                  Tâm đạo ngàn xưa chừng gọi dậy,
                  Bóng hòe nghiêng nắng tiếng ve đầy !
     Lục bát :
                  Gió nam hây hẩy ngày dài,
                  Bên song đối mặt thư trai thánh hiền.
                  Lặp lòe lửa lựu bên thềm,
                  Cỏ xanh sắc biếc vào rèm khói mây.
                  Nguyên Hanh dịch lý Đào Hy,
                  Tiếng đàn Đế Thuấn thiếu gì Phụ Khang.
                  Ngàn xưa tâm đạo khơi tràn,
                  Bóng hòe nghiêng nắng bàng hoàng tiếng ve !

                                                       Đỗ Chiêu Đức

2. Bài thơ ẨN GIẢ :

      隱者                              ẨN GIẢ

往來蹤跡倦紅塵,    Vãng lai tung tích quyện hồng trần,
占斷林泉作主人。    Chiếm đoạn lâm tuyền tác chủ nhân.
景有山川花是客,    Cảnh hữu sơn xuyên hoa thị khách,
門無車馬草常春。    Môn vô xa mã thảo thường xuân.
桐江釣月忘歸漢,    Đồng Giang điếu nguyệt vong quy Hán,
芝嶺耕雲樂去秦。    Chi Lãnh canh vân lạc khứ Tần.
卻羨陶朱興越日,    Khước tiện Đào Chu hưng Việt nhật,
五湖煙水一閒身。    Ngũ hồ yên thủy nhất nhàn thân.
                蔡順                                       Thái Thuận.

* Chú Thích :
    - ẨN GIẢ 隱者 : Người đi ở ẩn.
    - Vãng Lai Tung Tích 往來蹤跡 : là Dấu vết qua lại; có nghĩa là " Tới lui bôn ba bương chải với cuộc sống".
    - Chiếm Đoạn 占斷 : là Chiếm đứt luôn, là Giành hẵn cái gì đó.
    - Đồng Giang điếu nguyệt 桐江釣月 : ĐỒNG GIANG : Tên con sông ở Tứ Xuyên Trung Quốc. Đời Hán, Nghiêm Tử Lãng cùng bạn là Hán Quang Vũ, không chịu làm quan, hàng ngày ngồi câu ở Đồng Giang. Câu để mua vui nên được gọi là “điếu nguyệt” (câu trăng chứ không câu cá).
    - Chi Lãnh canh vân 芝嶺耕雲 : CHI LÃNH là Đĩnh của ngọn núi Chi Sơn, còn được gọi là Thổ Tố Sơn, tên ngọn núi ở Giang Tây. Đời Đường, quan Thứ sử là Tiết Chấn lên núi tìm được cỏ chi, nên đổi là Chi Sơn. Đời Tống, Giang Vạn Lý bị gièm pha, phải mất chức, đến Chi Sơn đào ao, lập vườn, sống ẩn dật. Khi quân Nguyên đánh chiếm Trung quốc, ông nhảy xuống ao tuẫn tiết.
    - Đào Chu 陶朱 : Còn được gọi là Đào Chu Công. Tên hiệu của Phạm Lãi, một công thần của Việt Vương Câu Tiễn, vì sợ bị sát hại, đã tìm đường ẩn cư để tránh nạn. Tương truyền ông đã dắt theo nàng Tây Thi xinh đẹp để ngao du Ngũ Hồ và trở nên giàu có nhờ hành nghề thương buôn. 

* Nghĩa Bài Thơ :
        Vất vả bôn ba bương chải với cuộc sống cũng đã mõi mệt giữa chốn hồng trần nầy rồi, nên giành hẵn chốn lâm tuyền nầy để làm chủ mà ở hẵn luôn. Cảnh trí thì có núi có sông mà khách là những khóm hoa rừng. Trước cửa không có dấu xe dấu ngựa nên cỏ thường tươi tốt như mùa xuân. Như Nghiêm Tử Lãng cùng bạn là Hán Quang Vũ, không chịu ra làm quan, hàng ngày ngồi câu trăng ở Đồng Giang mà không về với nhà Hán. Và như Giang Vạn Lý vui vẻ về với Chi Sơn đất Tần mà cày mây cuốc nguyệt. Lại hâm mộ cuộc sống của Đào Chu Công khi nước Việt đã hưng thịnh, ông bèn từ quan mà đi kinh thương ở đất Ngũ Hồ để sống cuộc đời nhàn tản với sông nước cho khỏe tấm thân.

* Diễn Nôm :
                       NGƯỜI ĐI Ở ẨN

Tất bật hồng trần mõi mệt đành...
                Lui về rừng suối chủ lều tranh.
                Cảnh sông cảnh núi hoa làm khách,
                Không ngựa không xe cỏ mãi xanh.
                Điếu nguyệt Đồng Giang mơ đã thỏa,
                Cày mây Chi Lãnh mộng vui thành.
                Đào Chu quy ẩn khi hưng Việt...
                Sông nước Ngũ Hồ khỏe một thân !
    Lục bát :
                Hồng trần bương chải mõi mê,
                Lâm tuyền làm chủ lui về thong dong.
                Hoa làm khách của núi sông,
                Ngựa xe vắng bóng cỏ trông xanh rờn.
                Đồng Giang điếu nguyệt từ quan,
                Cày mây Chi Lãnh mơ màng bao thu.
                Việt hưng quy ẩn Đào Chu,
                Ngũ Hồ dạo hết nhàn du khắp miền.
                                                          
                                                        Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ VỌNG PHU SƠN :

   望夫山                    VỌNG PHU SƠN

化石山頭幾夕曛,  Hóa thạch sơn đầu kỉ tịch huân, 
傷心無路更逢君。  Thương tâm vô lộ cánh phùng quân. 
天崖目斷年年月,  Thiên nhai mục đoạn niên niên nguyệt 
江上魂消暮暮雲。  Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân. 
青淚一般花露滴,  Thanh lệ nhất ban hoa lộ trích, 
離情萬種草煙雰。  Ly tình vạn chủng thảo yên phân. 
湘妃若識相思苦,  Tương Phi nhược thức tương tư khổ, 
不惜哀絃寄予聞。  Bất tích ai huyền ký dữ văn.
                蔡 順                                 Thái Thuận.
CHÚ THÍCH :
     - TỊCH HUÂN : là Nắng quái, ánh nắng thừa của mặt trời khi vừa lặn.
     - THANH LỆ 青淚 : là Giọt lệ xanh; giọt lệ của tượng đá hòa lẫn với rong rêu nên có màu xanh.
     - PHÂN 雰 : là Hơi khí sương mù.
     - TƯƠNG PHI OÁN 湘妃怨 là tên bài thơ của Trịnh Tiều đời Tống, thông qua việc tả Tương Phi để gởi gấm tâm sự ai oán của mình. Một tài liệu khác...
     - TƯƠNG HOÀN trong lúc được Vua sủng ái, lại khuyên Vua chia đều ơn vũ lộ với những cung tần khác, nhưng lại muốn Vua luôn đến để nghe mình đàn bài từ được phổ nhạc của TÀO HUÂN đời Tống là : Vũ tiêu tiêu hề Động Đình, Yên phi phi hề Hoàng Lăng. ( Mưa rả rít kìa Động Đình, khói mơ màng nọ Hoàng Lăng ! ).
     - TƯƠNG PHI OÁN còn là tên của một ca khúc đời NGUYÊN ( NGUYÊN KHÚC ) tả việc oán hận tương tư của một cung nhân thương nhớ Vua như CUNG OÁN NGÂM KHÚC của ta vậy.

DỊCH NGHĨA :
                         NÚI VỌNG PHU
       Đã biết bao buổi chiều tà nung nấu đến nỗi phải hóa đá trên đầu núi, Quả đáng thương tâm vì không còn đường nào để gặp lại chàng được nữa ! Năm năm cứ mãi nhìn mút con mắt cái vầng trăng ở phía chân trời, và mỗi chiều chiều hồn mộng cứ vẩn vơ theo những đám mây ở ven sông. Những giọt lệ màu xanh nhễu xuống như những giọt sương rêu, còn tình ly biệt thì tản mạn như hơi khói bốc lên từ cỏ dại. Nàng Tương Phi nếu biết được là tương tư sẽ phải khổ sở như thế nầy, thì chắc cũng không tiếc chi những tiếng tơ ai oán mà không gởi cho nhau nghe !

       Đọc bài thơ nầy lại làm cho ta nhớ đến 4 câu thơ trong bài NƯỚC TÔI của Nguyễn Văn Cổn, một thi sĩ thời Tiền chiến :

               ... Đá Vọng Phu nhớ thương thổn thức,
                   Tay bồng con non nước vời trông.
                   Xa xa mặt biển mênh mông,
                   Đầu non tượng đá tỏ lòng tiết trinh...
DIỄN NÔM :
                   NÚI VỌNG PHU
            Bao chiều hóa đá đứng đầu non,
            Gặp lại người xưa mộng hết còn.
            Mút mắt chân trời trăng đã bạc,
            Tiêu hồn mặt nước dạ chưa tròn.
            Lệ nhòa sắc biếc trông sương khói,
            Tình quyện màu mây ngóng mõi mòn.
            Nếu biết tương tư càng chuốc khổ,
            Tương Phi chẳng tiếc gởi lòng son.
  Lục bát :
            Đầu non hóa đá bao chiều,
            Hết đường gặp lại chồng yêu thuở nào.
            Mõi mòn ngóng ánh trăng cao,
            Trên sông hồn mộng lao đao mây trời.
            Lệ xanh rêu đá sương rơi,
            Muôn tình ly biệt tơi bời cỏ hoa.
            Tương Phi ví biết lòng ta,
            Tiếng tơ há tiếc đàn hòa tri âm.
                                                     Đỗ Chiêu Đức.
                
4. Bài thơ XUÂN DẠ :

    春夜                           XUÂN DẠ
重重簾影月斜移,    Trùng trùng liêm ảnh nguyệt tà di,
刺繡無人語夜遲。    Thích tú vô nhân ngữ dạ trì.
枕上夢魂誰喚醒,    Chẩm thượng mộng hồn thùy hoán tỉnh,
杜鵑聲在百葩枝。    Đỗ Quyên thanh tại bách ba chi !
* Chú Thích :
    - Trùng Trùng 重重 : là Lớp lớp, tầng tầng, là Chập chùng.
    - Liêm Ảnh 簾影 : Bóng của rèm cửa.
    - Thích Tú 刺繡 : THÍCH 刺 là Đâm, TÚ 繡 là Thêu. Thích Tú là từ kép chỉ Thêu Thùa.
    - Hoán Tỉnh 喚醒 : HOÁN là Gọi, TỈNH là Vở lẻ ra, là Dậy. Nên HOÁN TỈNH là gọi cho thức dậy.
    - Đỗ Quyên 杜鵑 : là tên chim. Ta còn gọi là con chim Cuốc, con quấc.

* Nghĩa Bài Thơ :
                               ĐÊM XUÂN
  
        Cái bóng chập chùng của rèm cửa xuyên qua ánh trăng đã từ từ nghiêng ngã. Không người thêu thùa trong cảnh đêm xuân vắng lặng đang chầm chậm trôi. Trên gối chợt tỉnh mộng hồn như có ai đó gọi dậy. Thì ra tiếng chim Đỗ quyên đang trên đầu cành hót giữa trăm hoa.
        Nhớ người cùng ngồi trò chuyện thêu thùa trong đêm xuân vắng lặng, nếu không phải là bà nội tướng thì là một hồng nhan tri kỷ nào đó... đến nổi ngủ quên đến khi nghe tiếng chim cuốc kêu trên cành hoa mới biết rằng trời đã sáng tỏ !

* Diễn Nôm :
                        ĐÊM XUÂN
          

             Chập chùng rèm lọt ánh trăng nghiêng,
               Không kẻ thêu thùa đêm lặng yên.
               Bên gối mộng hồn choàng tỉnh giấc,
               Đầu cành hoa rộn tiếng chim quyên.
    Lục bát :
               Ánh trăng lớp lớp nghiêng rèm,
               Thêu thùa vắng bóng ai đêm xuân dài.
               Bàng hoàng chợt tỉnh hồn mai,
               Đỗ quyên rộn rã bên ngoài cành hoa.
                                                                     
                                                                 Đỗ Chiêu Đức

5. Bài thơ GIANG THÔN TỨC SỰ :

 江村即事                   Giang thôn tức sự    
暖潮半落曉風微,        Noãn triều bán lạc hiểu phong vi ,
個個沙鷗向背飛。        Cá cá sa âu hướng bối phi. 
江上天歸何處所 ?        Giang thượng thiên qui hà xứ sở  ?
寒煙冷雨一縗衣。        Hàn yên lãnh vũ nhất thôi Y.
          蔡順                               Thái Thuận.
     

Chú Thích :

    - Noãn Triều 暖潮 : Nước thủy triều ấm áp; dòng noãn lưu.
    - Hiểu Phong 曉風 : gió sớm mai thổi khi trời rựng sáng. 
    - THÔI Y 縗衣 : là áo Sô gai, một loại áo tang, ở đây chỉ áo Lá mặc để che mưa che nắng và.... chống lạnh !
       
* Nghĩa Bài Thơ :
         Dòng thủy triều ấm áp đã xuống hơn phân nửa (chỉ nước ròng) và gió sớm đã hây hẩy chung quanh, từng con từng con chim hải âu bay về hướng sau lưng. Nhìn bầu trời in trên sông nước mà tự hỏi là trời sẽ trôi về đâu đây ? Trong cảnh khói sóng và mưa rơi lạnh lẽo nầy chỉ còn có một chiếc áo tơi đơn độc !
     
 Diễn Nôm :
            Chép việc nơi xóm bên sông.
          (Người dịch: Thi sĩ Quách Tấn)

          Gió thổi trào lui nửa cát bày, 
          Đoàn âu chiếc chiếc nối lưng bay.
          Trên sông trời hướng về đâu tá ? 
          Một mảnh tơi che lạnh tháng ngày !
                                      Quách Tấn.
Gió sớm hây hây tiễn nước ròng,
          Hải âu lớp lớp vút sau lưng.
          Mênh mông trời nước về đâu nhỉ ?
          Mưa khói lạnh lùng một lão ông !
 Lục bát :
          Nước ròng gió sớm hây hây,
          Hải âu lũ lượt cùng bay ngang đầu.
          Sông trôi trời sẽ về đâu ?
          Áo tơi sương khói mưa sầu một ông.
                                       
                                                Đỗ Chiêu Đức

6. Bài thơ Đông Triều Tảo Phát :

 東潮早發       ĐÔNG TRIỀU TẢO PHÁT

晨雞猶未报,    Thần kê do vị báo, 
客棹起江心。    Khách trạo khởi giang tâm. 
月淡山斜翠,    Nguyệt đạm sơn tà thúy, 
潮鹹水躍金。    Triều hàm thuỷ diệu câm(kim). 
沙鷗風冷冷,    Sa âu phong lãnh lãnh, 
漁浦樹陰陰。    Ngư phố thọ âm âm. 
誰詠滄浪曲,    Thùy vịnh Thương Lang khúc ?
前村驚睡禽。    Tiền thôn kinh thụy cầm.
       蔡順                     Thái Thuận

* CHÚ THÍCH :
   - TẢO PHÁT 早發 : là Khởi hành xuất phát sớm.
   - THẦN KÊ 晨雞 : là Gà buổi sáng.
   - TRIỀU HÀM THỦY DIỆU KIM 潮鹹水躍金 : Nước mặn nên gợn sóng lăn tăn lắp lánh như những gợn vàng.
   - NGƯ PHỐ 漁浦 : là Bến cá. Ở đây chỉ bến câu của các thuyền câu thường đậu.
   - THƯƠNG LANG KHÚC 滄浪曲 : là Khúc hát Thương Lang, tên của một khúc hát của các Ngư phủ trong sách Khuất Nguyên nước Sở xưa.
   - KINH 驚 : là Sợ. Ở đây có nghĩa là Giật mình.

* DỊCH NGHĨA :
                   Khởi hành sáng sớm ở Đông Triều
        Tiếng gà buổi sáng còn chưa kịp gáy thì mái chèo của khách đã quẩy động lòng sông rồi. Ánh trăng nhàn nhạt chiếu lên triền núi nghiêng nghiêng xanh biếc và làm dậy lên những đợt sóng do nước mặn lắp lánh tựa những gợn vàng lăn tăn. Gió sớm thổi lành lạnh trên bãi cát của chim hải âu và trên bến của các ngư ông hàng cây còn âm u im lìm đứng lặng. Văng vẳng xa đưa tiếng của ai đang hát khúc Thương Lang làm cho các con chim đang ngủ ở xóm trên giật mình thức giấc.

* DIỄN NÔM :
 Gà còn chưa gáy sáng,
                    Chèo khách đã khua vang.
                    Trăng mờ non xa biếc,
                    Nước xanh sóng gợn vàng.
                    Gió lạnh bờ cát vắng,
                    Cây mờ bến cá ngang.
                    Ai hát Thương Lang khúc,
                    Giật mình chim đầu làng.
  Lục bát :
                    Tiếng gà sáng chửa gáy vang,
                    Mái chèo khách đã sẵn sàng bến sông.
                    Núi xanh trăng chiếu mênh mông,
                    Nước xanh gợn sóng lăn tăn ánh vàng.
                    Lạnh lùng gió sớm thổi sang,
                    Âm u cây bến mơ màng ngư ông.
                    Thương Lang ai hát giữa dòng,
                    Giật mình chim bến bên sông thôn ngoài.
                                                   
                                                 Đỗ Chiêu Đức
7. Bài thơ XUÂN HIỂU

  春曉                 XUÂN HIỂU
忽聞何處鳥,   Hốt văn hà xứ điểu, 
客枕夢回新。   Khách chẩm mộng hồi tân. 
窗外雲如幕,   Song ngoại vân như mạc, 
空中雨似塵。   Không trung vũ tự trần. 
花容猶隱露,   Hoa dung do ẩn lộ, 
草色欲圍人。   Thảo sắc dục vi nhân. 
遊子吟風月,   Du tử ngâm phong nguyệt, 
誰能報得春。   Thùy năng báo đắc xuân.
      蔡順                    Thái Thuận

* Chú Thích :
    - Xuân Hiểu 春曉 : HIỂU là trời rựng sáng; nên XUÂN HIỂU là SÁNG XUÂN.
    - Khách Chẩm 客枕 : CHẨM là Cái Gối để gối đầu khi ngủ. Nên KHÁCH CHẨM là Ngủ nơi đất khách.
    - Vân Như Mạc 雲如幕 : Mây phủ như màn che.
    - Vũ Tự Trần 雨似塵 : Mưa như bụi.
    - Do Ẩn Lộ 猶隱露 : Còn ẩn chứa sương sớm.
    - Dục Vi Nhân 欲圍人 : Như vây quanh lấy người.
    - Hai câu chót lấy ý trong bài Du Tử Ngâm của Mạnh Giao đời Đường là :

                    Thùy ngôn thốn thảo tâm,   誰言寸草心,
                    Báo đắc tam xuân huy ?     報得三春暉。
      Có nghĩa :
                       Ai bảo nỗi lòng tấc cỏ,
                       Báo đền được nắng ba xuân ?

* Nghĩa Bài Thơ :
                            Buổi Sáng Mùa Xuân
      Chợt nghe tiếng chim hót xa xa như ở tận nơi nào, bên gối khách vừa tỉnh dậy sau một giấc mộng dài. Ngoài song mây giăng giăng như màn che, trên bầu trời mưa lưa thưa lất phất như bụi. Những đóa hoa nở như còn đọng lại những hạt sương đêm và màu cỏ xanh mơn mởn như vây lấy con người. Người du tử ngâm câu hoa nguyệt, nhưng nào ai đã báo đáp được nàng xuân đâu !

* Diễn Nôm :

                SÁNG XUÂN
Chim nơi đâu chợt hót,
           Khách bỗng tỉnh mộng dài.
           Ngoài song mây mờ phủ,
           Bên trời mưa bụi bay.
           Hoa nở sương còn đọng,
           Cỏ xanh biếc quanh ai,
           Du tử ngâm thơ thẩn,
           Ai báo được xuân nay ?

  Lục bát :
           Chợt nghe chim hót đâu đây,
           Khách choàng tỉnh mộng mới say giấc nồng.
           Mây che rèm phủ ngoài song,
           Phất phơ mưa bụi trên không mơ hồ.
           Lá hoa còn ngậm sương mơ,
           Biếc xanh đồng cỏ ơ hờ quanh ta.
           Ngâm câu tuyết nguyệt phong hoa,
           Nào ai báo được xuân qua bao lần ?!
                                                
                                            Đỗ Chiêu Đức
     
8. Bài thơ THU DẠ :

        秋夜                           THU DẠ
    碧天如水露花零,    Bích thiên như thủy lộ hoa linh,
    桐葉無聲落滿庭。    Đồng diệp vô thanh lạc mãn đình.
    望斷鵲橋人獨坐,    Vọng đoạn thước kiều nhân độc tọa,
    一般詩思到繁星。    Nhất ban thi tứ đáo phồn tinh.
                  蔡順                                      Thái Thuận

* Chú Thích :
    - Bích Thiên 碧天 : Chỉ màu trời xanh biếc.
    - Lộ Hoa Linh 露花零 : Những hạt sương rơi làm cho hoa héo úa.
    - Đồng Diệp 桐葉 : là Lá của cây ngô đồng.
    - Vọng Đoạn 望斷 : Nhìn đến mút con mắt.
    - Thước Kiều 鵲橋 : Cầu ô thước.
    - Phồn Tinh 繁星 : là Ngàn sao, chỉ trời đầy cả sao.

* Nghĩa Bài Thơ :
                                ĐÊM THU
        Đêm thu màu trời xanh biếc như nước và rây đầy khắp cả những hạt sương đêm làm héo lạnh trăm hoa. Trong sân nhà phủ đầy cả lá ngô đồng âm thầm rơi rụng. Ta ngồi một mình nhìn mút mắt chiếc cầu ô thước xa xăm mà tất cả tứ thi và hồn thơ như bay bổng cả lên chốn ngàn sao của dãy Ngân Hà trên kia. 
         
        Bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến hai câu thơ chót trong bài THU TỪ của Lưu Vũ Tích 劉禹錫 đời Đường là :
                  晴空一鶴排雲上,    Tình không nhất hạc bài vân thượng,
                  便引詩情到碧霄.     Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu.
   Có nghĩa :
                       Vút trời một hạc mây xanh ngắt,
                       Bay bổng tình thơ đến bích tiêu !

             

* Diễn Nôm :
                      ĐÊM THU
              Trời trong như nước sương hoa héo,
              Lá rụng ngô đồng ngập kín sân.
              Mút mắt ngắm nhìn cầu ô thước,
              Hồn thơ bay bổng tận sông Ngân !
    Lục bát :
              Trời thu sương héo trăm hoa,
              Ngô đồng lá rụng là đà đầy sân.
              Một mình ngồi ngắm sông Ngân,
              Hồn thơ bay bổng chín tầng cầu Ô !

                                                                                    杜紹德                                   
                                                                                Đỗ Chiêu Đức
🌹🌹🌹🌹🌹


Xem Thêm :Góc Việt Thi : Thơ NGUYỄN TRÃI

                    Góc Việt Thi : Thơ PHAN THANH GIẢN






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét