Chữ nghĩa làng văn
“Chữ
nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa,
diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp
nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh,
không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề
mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu
có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng
hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một
sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện
tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo
lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo
hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.
***
Chữ nghĩa làng văn
Có người cho rằng, từ cầy có lẽ xuất phát từ chữ cẩu nhưng được đọc âm khác đi vì kiêng cữ.
Nguời Việt chỉ biết chó qua văn
chương Hán học. Chữ “cẩu” đầu tiên xuất hiện trong bài thơ tả cảnh hai
ông quan chửi nhau của Cao Bá Quát làm vào thời Tự Đức (1847-1883).
Các từ về chó có trong thơ văn
như khuyễn mã (Kiều – Nguyễn
Du). Ngòai ra Nguyễn Du có riêng bài thơ về ăn thịt chó.
Tôi có một vài người bạn
Không nhiều nhưng mà ít
Tri
túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri
nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn
Trước Nguyễn
Công Trứ đã có câu của Nguyễn Trãi:
Biết
đủ dù không gì cũng đủ
Nên
lui nếu có dịp thì lui
Chữ là nghĩa
Mà
nó phiên âm từ tiếng Chàm: Phong = Phnom; Nha = ya,ea:
Bút hiệu Chân Diện Mục, tự Tây Đô cuồng sĩ
Đại hạ
Một ông phú hộ làm ngôi nhà mới, mở tiệc ăn mừng. Yên Đổ cho hai chữ Đại hạ. Đại
hạ là nhà to. Nhưng thay vì viết hạ là nhà, cụ lại viết chữ hạ là mùa hè,
mùa hè to là nghĩa gì?
Sau cụ mới giải thích cho người thân:
Đại hạ là hè
to, hè to lái là tò he: tò he tí hỏi, là tiếng kèn đám ma
Hỏi ra thì ông phú hộ này xưa kia quả có làm nghề thổi kèn đám ma...
Học ăn học nói, học gói mang về
Chơi chữ
Chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt sao cho hai lựơng ngữ nghĩa khác hẳn nhau
đựơc biểu đạt bởi cùng một hình thức ngôn ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính
chất chữ nghĩa. Càng làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn chương Việt Nam.
Giả dụ như:
- Phất phất phóng phong phan, pháp phái phi phù,
phù phụng Phật
- Căng căng canh cổ kệ, ca cao kỉ cứu, cứu cùng kinh .
(Phất phất cờ phứơng bay trứơc gió, đạo pháp làm phép đốt bùa, bùa thờ Phật -
Oanh oanh hòa giọng đọc kệ cổ, cất cao tiếng nghiền ngẩm kinh, nghiền ngẩm đến
cùng)
Đây là câu đố chọc ghẹo ông sư móm và chú tiểu ngọng của cụ Nguyễn
Khuyến.
"Kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò"
Lịch sử ở đây hiện lên với bản di chúc viết tay của Nhất Linh kèm theo câu nói ngắn gọn “Nhờ Vinh giữ, khi cần Vinh đưa lại” giữa hai người sinh viên trước cửa cư xá đại học.
(Trịnh Y Thư)
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Chẳng tham nhà ngói rung rinh
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười
Miệng cười em đáng mấy mươi
Chân đi đáng nén miệng cười đáng trăm
Những người con mắt lá răm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiềnTướng
mặt
2 - Khuôn mặt
chữ Viên (圓) :
Mặt chữ Viên có
hình dạng mặt
tròn, các bộ vị trên mặt có dạng tròn tượng trưng sự tròn trịa nên
cuộc sống luôn được hài hòa. Đây là những người đôn hậu, thật thà, trọng tín
nghĩa. Nhưng họ cũng dễ dàng mất đi chủ kiến, tính khí hơi thất thường.
Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả
Nếu “lền” có nghĩa là nhiều, đông; “lền
trời” = đầy trời, thì phải có phụ chú để người dùng không bị
nhầm lẫn (đây chỉ là phỏng đoán, vì không thấy bất cứ cuốn từ điển nào ghi nhận
“lền trời”).
Trong tác phẩm này tác giả khảo sát thần linh của người Việt từ xưa đến nay.
Bằng những kiến giải lí thú nhưng rất logic và thuyết phục, tác giả đã lột bỏ
đi lớp áo mão rực rỡ của nhiều vị thần, hiện nguyên hình là những ông đá, ông
cây ..
Khảo sát những vị nhân thần sơ khai đến các nhân thần chính danh thời cận đại, tác giả cũng chứng tỏ trong tâm thức người Việt luôn tồn tại một ông thần, dù đôi lúc bị ngụy trang ko dễ thấy, từ đó dự báo chiều hướng phát sinh các vị thần mới trong tương lai - “Người ta chỉ có thể thay đổi chứ không thể hủy thần linh…”
***
Lần đầu tiên tôi “gặp” bác Tạ Chí Đại Trường là vào năm
1992, tại nhà thầy Trần Quốc Vượng (1). Năm ấy
thầy mới đi Mỹ về. Tôi từ Sài Gòn ra ghé thăm thầy. Ngắm nghía những giá sách
đầy chật nhà thầy, tôi nhận ra ngay những cuốn sách mới.
Có một cuốn mà vừa nhìn thấy tôi đã
cầm lấy xem ngay bởi cái tựa sách và cả tên tác giả đều lạ. Đó là cuốn “Thần,
người và đất Việt” – cuốn sách mà cho đến giờ tôi vẫn nhớ nhầm tựa sách, luôn
đảo thứ tự 3 thành phần trên như “Người, đất và thần Việt” hay “Đất, thần và người
Việt”… vì tôi thấy để kiểu gì cũng hay và… có lý.
Tất nhiên sau đó tôi xin phép thầy Vượng photo lại, và nó trở thành một trong
số ít những cuốn sách nghiên cứu tôi rất thích.
(Nguyễn Thị Hậu)
(1) Kể từ cuối thập niên 2000, sách của Tạ Chí Đại Trường
mới được chính thức in và phát hành tại Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi viết: Với tôi, ông ấy là người luôn
người ngẩng cao đầu.
- Nếu viết “lợn nòi” thay vì “lợn lòi” là sai. Vì “lòi” trong “lợn lòi” nghĩa là thòi, lòi ra, chỉ giống lợn nanh lòi, chìa ra ngoài.
Tạ Chí Đại Trường quê gốc Bình Định. Tên của ông, Đại Trường, được ghép từ
hai địa danh của tỉnh Khánh Hòa là Đại Lãnh và Trường Giang (sông Cái). Năm 1964, ông tốt
nghiệp cao học Sử tại Đại Học Sài Gòn rồi nhập ngũ, cấp bực cuối cùng là Đại
úy.
Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 6 năm đến năm 1981. Từ 1994, ông đi định cư
tại Hoa Kỳ. Sau khi nhắm không qua khỏi căn bệnh
nan y, ông đã từ Mỹ về lại Việt Nam ở với người anh vào ngày 4 tháng 10 năm
2015 với ý nguyện sẽ “gửi nắm thân tàn” lại nơi quê hương.
Những bài dã sử Việt,
Việt Nam nhìn từ bên trong, Một
khoảng Việt Nam Cộng hòa nối dài Lịch sử nội chiến Việt Nam
VOA: Thính giả bên trong Việt Nam muốn biết cuộc sống hiện nay của những
nhà văn như ông. Xin cho biết qua một vài điều về sinh hoat hằng ngày của ông
bây giờ và các nhà văn Việt Nam ở Pháp, Mỹ hay ở hải ngoại nói chung.
VTH:
Tôi nghĩ rằng lớp nhà văn già, có bao nhiêu người tôi không tính được, nhưng
những người lớp tuổi trên 60, 65 thì chắc là giống tôi, vì bên này có chương
tình cấp dưỡng cho người già. Còn anh em nhà văn trẻ hơn vẫn có công ăn việc làm.
Có lẽ cũng là cái tốt cho họ vì môi trường hoạt động của họ sẽ rộng hơn, họ có
dịp đi nước này nước khác nhiều hơn, gặp gỡ các nhà văn nước này nước khác
nhiều hơn.
VOA: Tuy sống tại Pháp nhưng chắc là ông vẫn có dịp theo dõi tình hình văn
học bên trong Việt Nam. Vậy thì ông có những nhận xét gì về tình hình văn học
bên trong Việt Nam hiện nay, điển hình là “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, các bài thơ
của Nhóm “Mở Miệng”, tập thơ “Dự báo phi thời tiết” của Nhóm 5 Con Ngựa Trời
v.v…
VTH:
Tôi cũng chăm chú theo dõi tình hình văn học trong nước, tôi thấy nó tiến chậm
chạp so với các nước khác. Văn học ở các nước khác không có những điều cấm kỵ, người
đọc đủ trưởng thành để tự chọn món ăn tinh thần cho mình, không cần sự khuyên
nhủ của một cơ quan nào. Những hiện tượng có tiếng ồn trong văn học, thì tôi
nghĩ “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” không thể coi là một tác phẩm văn học được. Đó
là một tư liệu về tinh thần dấn thân của một thanh niên (1)
đi theo một lý tưởng, nhưng nếu nói đó là một tác phẩm văn học thì chắc là không
thể nói được.
Còn nhóm Mở Miệng thì tôi cũng đọc thỉnh thoảng, bắt gặp những nét của những
anh em trẻ. Tôi nghĩ rằng nhóm Mở Miệng còn tồn tại được vì họ nói những điều
không đụng chạm lắm. 5
Con Ngựa Trời cũng thế, nó cũng chỉ phi ở những con đường không có rào cản, nếu
có rào cản chắc là không phi được..
(1) Ghi chú của người sưu tầm: Đặng Thùy Trâm là
một cô gái.
Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả
“rắn: rắn dọc dừa”. - “rắn: rắn dọc dưa”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Sở dĩ gọi là “rắn sọc dưa” vì rắn có sọc chạy dọc theo thân mình, giống như
sọc của quả dưa
Chữ nghĩa làng văn xóm chữ
Đến đây, bạn đọc hẳn thắc mắc : tại sao một tập thơ (Chân dung nhà văn) với nội dung như thế lại được phép xuất bản? Tại sao tác giả lại chép tay rồi phóng ảnh, thay vì đánh máy, xếp chữ như thường lệ? Tại sao in tại nhà in bộ Nội Vụ, tức là bộ Công An ngày nay? Câu trả lời : đây là mưu lược của nhà xuất bản Văn Học, do Lữ Huy Nguyên điều hành và Hoàng Lại Giang đại diện phía Nam. 99 bài thơ được đánh số, không ghi rõ tên chân dung của nhà văn nào, buộc người đọc phải đoán, như một câu đố.
Được tướng Trần Độ
ghi âm tại Vũng Tàu, nơi Xuân Sách cư ngụ. Lữ Huy Nguyên và Hoàng Lại Giang
nghe được, bằng lòng xuất bản, chịu trách nhiệm và hậu quả. Nhưng để tránh khâu in
ấn, đánh máy, xếp chữ, chữa bản vỗ dễ bị công an PA25 (sic – A25?) theo dõi và ngăn chặn, tác giả phải
chép tay rồi chụp phim. Cuối cùng đưa cho nhà in bộ Nội Vụ là nơi ít bị công an
theo dõi nhất. Thế là sách in ra và phát hành.
***
Thêm chuyện nhỏ về
Huy Cận: chính anh đã đọc cho tôi (?) nghe bài về Hoài Thanh, một cách thích
thú. Anh đọc chệch nửa câu :
Thi nhân
còn một chút duyên
Chẳng gìn cho vững, lại lèn cho đau.
Thay vì: lại vò cho nát lại lèn cho
đau. Huy Cận nhớ sai, có lẽ vì anh liên kết với câu Kiều, đã làm nền cho thơ
Xuân Sách :
Chữ
trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan
Anh cũng có mách việc
Xuân Sách vào viện thăm Hoài Thanh, do Từ Sơn con trai Hoài Thanh kể lại. Chuyện
nhỏ này chứng tỏ những tác giả quyền thế, dù bị công kích, cũng có người tán
thưởng những bài thơ đúng đắn và nghệ thuật.
Dù bài vịnh Huy Cận
có lời ác :
Tôi hát
chiến tranh như trẩy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Hiện nay, văn giới
đang bàn tán nhiều về hồi ký Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải, rồi
nhắc lại Di Cảo của Chế Lan Viên. Tôi không mấy quan tâm đến những tâm
cảnh, quan cảnh chiếu hậu này, vì không biết đâu là phần chân thành đâu là phần biện minh. vớt
vát. Nhưng tôi trân trọng Xuân Sách vì đã sáng tác tại chỗ và đúng
lúc. Nó là một tài liệu văn nghệ sống đã đành, mà còn là tiếng nói của lương
tri thời đại, như chữ ông đã dùng.
(Chân
Dung Xuân Sách - Đặng Tiến)
(quyển tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của
miền Nam)
Nhà văn miền Nam Bình Nguyên Lộc trong cuộc phỏng vấn
trên The Vietnam Forum số 13/1990 lúc sang Mỹ định cư cũng cho
biết: "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà
thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốn Hà Hương phong nguyệt truyện của
Lê Hoằng Mưu. Cuốn này được xuất bản vào khoảng năm 1917, và tôi tin đó cũng là cuốn tiểu
thuyết được xuất bản đầu tiên của Việt Nam”.
Thái Bạch trong “Truyền thống bất khuất của văn nghệ miền
Nam” in trên Tin Văn số 12 ngày 9.6.1967 vẫn còn nhớ đến cuộc
bút chiến quanh tác phẩm này. Ông Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm Sách Xưa & Nay
trong Hồi ký 60 năm chơi sách cho biết có người đã từng yêu
cầu ông “làm bất cứ cách nào” và mua hộ “bằng bất cứ giá nào” quyển sách này
của Lê Hoằng Mưu.
(Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học –
Võ Văn Nhơn)
Viết “đái dắt” mới chuẩn: “đái dắt [bệnh] đái liên tục nhiều lần, nhưng mỗi lần đều đái rất ít”.
Tất
cả những thứ đó quện với nhau làm cho món bánh đúc mang một hương vị đậm đà và
một cảm giác lạ miệng rất riêng biệt.
Bánh
đúc lạc là món ăn thể hiện phong vị ẩm thực thanh tao, bình dị, dân dã của
những người thôn quê và khi mang ra đến Hà nội nó trở thành một món quà nhẹ
nhàng mà tuyệt vời thấm đẫm tình người.
Nhớ
lắm, Hà Nội ơi...
(Tuệ Phong)
Chữ nghĩa…tàn lụn
Tim lụn có
nghĩa tim đèn cháy hết, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt..
Mấy
ai còn nhớ, còn biết, còn sử dụng những chữ cổ trên.
(Nguyễn Văn Lục)
Nguyễn Bính
Năm mười ba tuổi, Nguyễn Bính làm mọi người kinh ngạc về tài thơ của mình. Năm đó, vào dịp tháng ba âm lịch, hội Phủ Giầy tỉnh Nam Định quê ông có tổ chức một cuộc thi thơ. Đề thi là Tả cảnh chọi gà trong ngày hội. Trong lúc mọi người đang loay hoay làm bài, người ta đã thấy một cậu bé con bước vào chỗ ban giám khảo đang ngồi để nộp bài. Đó chính là Nguyễn Bính.
Trong bài thơ tả cảnh chọi gà đó, ngoài sự độc đáo về
mặt nghệ tác giả đã lấy hai câu ca dao "Khôn ngoan
đá đáp người ngoài/Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" để đưa vào bài thơ tả cảnh chọi gà một cách đầy ý
nghĩa.
Gốm Bát Tràng từ xa xưa đã nổi tiếng về chất men phủ, phổ
biến là men
màu búp dong, loại men này sắc độ trắng hơi ngả xanh hoặc xám. Đặc
biệt là Bát Tràng đã có men lý, men nho, men này màu gần như màu ngọc thạch,
nên được gọi là men ngọc. Riêng hai loại men rạn là rạn xương đất đen và rạn
xương đất trắng có giá trị từ xưa, ngày nay đã được các nghệ nhân chế tác.
Cuối cùng là khâu nung lò. Có nhiều kiểu lò nung khác nhau phù hợp với từng loại sản phẩm: từ kiểu lò cổ truyền là lò ếch, tới lò dàn, lò bầu, lò hộp...Nguyên liệu để nung lò cũng được thay đổi theo từng giai đoạn: từ việc đốt lò bằng cỏ khô, rồi tiến tới củi. Các nghệ nhân, có người tinh tế về men, có người chuyên sâu về tạo dáng, có người lại có tài về vẽ... Những sáng tạo của lớp nghệ nhân già cùng sức trẻ của Bát Tràng đã làm nên một thế giới đa dạng, lấp lánh sắc màu từ nắm đất quê hương.
Địa danh
của vùng đất phương
Năm 1832, Minh Mạng theo nhà Thanh, chia 5 trấn
thành 6 tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, An Giang và Hà Tiên (1). Từ đó miền
(
(Trần Văn Miêng)
(2) Khi Nhật vào Việt Nam tháng
3 năm 1945, thống sứ Nhật là Nashimura
đổi Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (tên của người Pháp gọi) thành Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.
Hán Vũ Đế ngẫm nghĩ hồi lâu, biết bị qua mặt, tức giận vì
không tìm ra bằng chứng, bèn ra lịnh cách hết chức tước, không tịch thu gia sản
mà cho về hưu. Mã Viện cũng còn may giữ được cái mạng già nhờ mấy hột bo bo Giao Chỉ.
Tác phẩm Kẻ đưa đường, Pulau Bidong, Miền Đất Lạ.
Xích lô máy giữa năm 1955
có vè to bản hơn chạy trên
đường Trần Hưng Đạo có xe
điện Sài Gòn-Chợ Lớn
Lịch sử người Hoa ở Sài
Gòn
***
Riêng
với con kênh Tàu Hũ, sau khi được đào xong năm 1819, nó mau chóng trở thành con
đường huyết mạch giúp cho Chợ Lớn (lúc đó còn
mang tên Sài Gòn) sau này phát triển thêm nhiều.
Trong
“Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (năm 1885)”, Trương Vĩnh Ký viết
: “Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là hai dãy
nhà phố lớn bằng gạch gọi là Tàu Khậu để cho người Hoa từ Trung Quốc hàng năm
đi ghe biển tới thuê. Họ đem hàng hoá chứa trong các phố đó, hoặc để bán sỉ, bán
lẻ khi lưu trú tại Sài Gòn”.
Tuy
đều từ Tàu qua, nhưng đợt di dân lớn nhất do hai tổng binh Dương Ngạn Địch và
Trần Thượng Xuyên vào năm 1679. Theo như đã chứng minh, họ chính là những người
đã đặt nền móng xây nên Chợ Lớn mà ngày đó mang tên Sài Gòn.
Đó
là lý do giải thích việc đình Minh Hương tại Chợ Lớn ngày nay lại
thờ thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên,
và hai ông quan thượng thư gốc Minh Hương Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân
Tịnh.
Những ngôi chùa Bắc
Chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian ở
Sơn Tây nằm trong địa phận của làng Tiên Lữ, huyện Hoài Đức, tỉnh Sơn Tây, còn
có tên là Quảng Nghiêm Tự. Chùa được xây cất trên lưng chừng đỉnh núi Bối Kê,
mang nhiều sắc thái của thời đại Lý Trần. Có nhiều huyền thoại chung quanh ngôi
chùa nầy; trong đó có chuyện đức Thánh Bối (Bối tức là làng Bối Kê).
Dù ai nương náu xa gần
Tháng ba ngày rằm trẩy hội Thánh tăng.
(Kiêm Thêm)
Ta
có thể nào tân tạo danh từ Cha,
sau khi tiếp xúc với nhà Hán hay chăng? Có thể, nhưng lại không.
Thường
thì khi một dân tộc vay mượn một món đồ, một ý niệm, họ vay mượn luôn danh từ
trong ngôn ngữ của dân tộc cho vay. Thí dụ ta vay mượn cái xà rông của dân Mã Lai thì vay luôn danh từ xà rông.
"Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ
phong thổ, ngũ độc thư".
Nghĩa
đen: Đưa hổ xa núi. Tìm cách đưa kẻ ác đi xa mình để nó không thể quấy rầy mình
được.
Giải thích chưa
đúng, chưa đủ nghĩa. Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm. Rừng núi là lãnh địa
của chúng. Do đó, muốn tiêu diệt được hổ phải tìm cách dụ chúng ra khỏi hang ổ
hoặc nơi nó phát huy được thế mạnh. Đây là một mưu kế làm suy yếu đối phương
trong “Tam thập lục kế”. Ví như dụ giặc ra khỏi thành trì kiên
cố để dễ bề tiêu diệt, chính là kế “điệu hổ ly sơn”.
(Hoàng Tuấn Công)
Rồi diện mạo của nó thế nào?
Một chàng trai hỏỉ:
“Cô kia, cô kỉa, cô kìa
Người cô thế ấy,…cái kia thế nào”
Đã được phía bên kia trả lời:
“Nó xình, nó xỉnh, nó xinh
Nó cũng như mình, nó đã
có…ria”
Họ đã sửa soạn cả. Nhiêu Còm đã mở chiếc hòm mục lấy cái áo the cũ bạc vai, vá khuỷu tay, sắp sửa để đi đưa ma ông Lý và đánh chén. Bọn trẻ con cũng vui vẻ; chúng thấy trong xóm có sự lạ, và như chúng ngửi thấy mùi xôi thịt. Bác Ngọ, bán hàng sũ ở đầu xóm, đã sắp sẵn một cỗ ván tốt, và nhấm nháy Xã Xệ, để ông Xã khỏi mua hàng của bác Mùi, dưới cuối xóm. Xã Xệ ngắm nghía cỗ ván, vuốt chiếc tóc trên đầu, hoặc gãi vào cái bướu gần thái dương, trả lời viển vông: “Được, để tôi hỏi bà Lý xem”. Rồi đến lượt Khán Thân làm hàng mã, Nhiêu Tuất bán hàng vải. Xã Xệ thấy ai cũng tử tế, cũng có ý ngầm mời đánh chén. Mọi khi bọn này, mỗi khi chàng đi qua, thường chỉ lên đầu cười rúc rích, hoặc nói cạnh đến cái tóc. Mấy hôm nay, mỗi lần về nhà, Xã Xệ thường phàn nàn với vợ: “Bác Lý ốm, thành mình cũng vất vả lây”. Bác Xã gái an ủi chồng, giục sang nhà Lý Toét. Vợ Xã Xệ muốn tống chồng đi cho khỏi tốn rượu. Mà Xã Xệ cũng chẳng muốn ở nhà.
Xin thưa khi muốn diền tả một chuyệ hay thật hay, ta thường nói
hay…“tuyệt cú mèo”.
Đầu tiên chỉ là tuyệt. Nhưng tuyệt không thôi
nghe cụt lủn. Sằn có thể thơ 4 câu, 3 vần xuất sứ từ Trung Hoa là “tuyệt cú”,
người ta cho chữ…“cú” đi sau.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ
[Trích đoạn]
Thật là oan cho Lưu Trọng Lư. Ông đã mất lâu
rồi, nên không thể thanh minh được.
………
Cái hay của Tiếng thu, tôi đã bàn trong bài
viết Lưu Trọng Lư và bài thơ Tiếng thu rồi. Ở đây, xin phép không nói lại. Ta
chỉ lưu tâm đến cái nghi án của bài thơ này thôi. Có thật Lưu Trọng Lư sao chép
bài thơ đó của Nhật Bản không?
Người đầu tiên vu cho Lưu Trọng Lư cái việc làm
rất không lấy gì làm đẹp này là ông Nguyễn Vỹ trong cuốn Văn thi sĩ tiền chiến.
Cứ như ông Nguyễn Vỹ thì Tiếng thu chính là bài Tanka của thi sĩ Nhật Bản nổi
tiếng Sarumaru ở thế kỉ VIII. Nguyên văn bài Tanka thế này:
Oku yama ni
Monoji fumi wake
Naku shika no
Koe kiku zo
Aki wa kanashiki
Tiểu sử : Trần Đăng Khoa sinh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện ở Hà Nội.Tác phẩm: Chân dung và đối thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay
***
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều
nguồn)
Cao Xuân Huy
(1947-2010)
Cao Xuân Huy sinh tháng 9 năm 1947, quê nội ở
Bắc Ninh, quê ngoại ở Hà
Ông nhập ngũ năm 1968, là cựu Trung úy Ðại Ðội
Phó ÐÐ 4 thuộc Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào
tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm. Năm 1982 ông vượt
biên và đến Mỹ một năm sau đó.
Năm 2005, nhà văn Cao Xuân Huy làm chủ biên tạp
chí Văn Học (kế tục vai trò của nhà văn Nguyễn Mộng Giác) đến tháng 4 năm 2008
Văn Học phát hành số 236 thì đình bản vì lý do ông bị ung thư mắt, sức khỏe suy
yếu nên không thể chăm lo cho tờ báo.