Một bài viết lạ, một cách nhìn còn “MỚI” dù đã viết khá lâu của một
nhà thơ tầm cỡ, quen thuộc của văn đàn Miền Nam nói riêng và Việt-Nam
nói chung: Tô-Thùy-Yên – về một nhân vật “HUYỀN-THOẠI” khác: Nguyễn-Du,
bài viết này trên tạp chí Văn Nghệ (số 17, 9-10/1962. Trong bài viết
ngắn này, tác giả truy vấn lại một khía cạnh khác của “ĐỊNH-MỆNH” trong
xuyên suốt Truyện Kiều, những gì còn để lại của Nguyễn-Du khiến Ông “Nhận
ra sự còn hợp thời ngày nay của nó và nhìn thấy thấp thoáng bóng mình
trong ba ngàn câu thơ quý thạch sáng choang kia. Truyện không còn là
chuyện của riêng Kiều, tâm sự không chỉ là tâm sự Nguyễn Du. Chuyến xe
bạc mệnh chở con người lạc loài chạy xong mười lăm năm, còn chạy mãi như
bay trong cõi hồng trần”.
Đó phải chăng cũng là cái cách mà hậu thế ngày nay nên “ĐỐI-XỬ” với
những tác phẩm, những tác giả đã bằng mọi cách: Hoặc tranh đấu hoặc hàng
phục hoặc truy vấn… “ĐỊNH-MỆNH”, cốt đến cuối cùng, để lại cho đời
những tác phẩm “ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”… như Nguyễn-Du, như Tô-Thùy-Yên…
Nguyễn-Trường-Trung-Huy giới thiệu
ĐI TÌM NGUYỄN-DU
Khối băng trôi trên mặt biển, phần nổi rất nhỏ so với phần chìm.
Những ý niệm hiện lên trong trí người đọc về một kiệt tác ngay lần sơ
ngộ là phần nổi của khối băng. Chúng giúp người đọc làm quen với tác
phẩm, đưa người đọc bước vào trong. Sau đó, người đọc phải tự mình khám
phá lần hồi, hay đúng hơn, suy diễn qua chủ quan của mình, những bí ẩn
chôn vùi trong tác phẩm. Người đọc đứng đắn có bổn phận góp phần sáng
tạo với tác giả; một tác phẩm hoàn thành bao giờ cũng chỉ mới xong có
một nửa, còn một nửa đề dành cho người đọc.
Tác phẩm lớn đề nghị người đọc suy tưởng chứ không ấn định những suy
tưởng của tác giả với người đọc. Ý nghĩa mà nó ôm ấp bao giờ cũng phức
tạp, mơ hồ, rậm đặc. Quá nhiều ánh sáng gây thiệt hại cho nó. Nó sáng mơ
hồ, một thử sáng clair – obscur, nửa sáng nửa tối, để chứa dấu và
thường khi nó ghen tuông ôm giữ khư khư phần chứa dấu đó, nó phát ra một
trở lực để kháng lại sự xâm nhập của người đọc. Nó là kho tàng niêm
phong bằng những đạo bùa thiêng. Nó là người đàn bà đoan trang tự trọng
trước sự suồng sã của kẻ khác. Cho nên tác phẩm nào bày biện trơ trẽn
tất cả ý nghĩa ra bề mặt, dù giàu có phong phú đến đâu, cũng chỉ là tác
phẩm thứ yếu, nếu không nói là tác phẩm bỏ đi. Tiếng nói đầu tiên của
thiên tài không phải là tiếng nói cuối cùng, tiếng nói độc nhất của
thiên tài đó.
Đoạn Trường Tân Thanh là
một tác phẩm lớn. Nguyễn-Du thuộc
vào nòi thiên tài. Trong gần hai thế kỷ nay, người đồng thời cũng như kẻ
hậu sinh đã tìm thấy, suy diễn được nhiều điều ở Nguyễn-Du. Người ta đã
khai phá, đào xới, lục soát Nguyễn-Du, có khi những công cuộc tìm tòi
hoặc vô tình hoặc cố ý đã làm sứt mẻ, biến dạng ít nhiều khuôn mặt
Nguyễn-Du. Nhưng biết làm thế nào khác được? Vì không thiên tài nào có
một khuôn mặt nhất định; mỗi thời đại, mỗi người đọc gắn cho thiên tài
một cái mặt nạ. Và như vậy, người ta vẫn chưa tìm thấy hết ở Nguyễn-Du,
người ta vẫn chưa tra khảo được Nguyễn-Du phải thú nhận, cung khai sự
thật cuối cùng. Nguyễn-Du còn nói nữa. Người ta còn nói nữa về
Nguyễn-Du. Và câu chuyện vẫn không ngớt mang đến nhiều hào hứng say mê.
Nguyễn-Du là thi sĩ của con người lạc loài. Đặc điểm nổi bật này đã
phân biệt Nguyễn-Du với những tác giả khác trong văn học Việt-Nam. Con
người lạc loài là cái trục mà hầu hết các tác phẩm của Nguyễn-Du xoay
quanh, đeo vào như đàn ong trên ổ mật. Nó là đầu đề bất biến của ông.
André Malraux, trong bài tựa bản dịch tác phẩm Sanctuaire của William
Faulkner, cho rằng thi sĩ bi kịch diễn tả những gì mê hoặc ám ảnh hắn,
không phải để giải thoát mình khỏi cái ám ảnh đó (Đối-Tượng Ám-Ảnh sẽ Xuất-Hiện trở lại trong Tác-Phẩm sau) nhưng để thay đổi tính chất của
nó; vì diễn tả nó với những yếu tố khác, hắn đưa nó vào vũ trụ tương đối
của những sự vật được nhận thức và được chế ngự!
Nói như vậy Malraux mặc nhiên nhìn nhận rằng toàn thể tác phẩm của
một tác giả hàm súc một ý nghĩa chung tạo thành sự nhất trí cho chúng. Ý
nghĩa chung đó là cái ám ảnh một đời không biến đổi của tác giả. Con
người lạc loài là cái ám ảnh một đời Nguyễn-Du. Nó xuất hiện trong hầu
hết tác phẩm của ông. Ở bài Độc Tiểu Thanh Ký, ông thương khóc
một người con gái giỏi nghề cầm thư, phải đi làm lẽ bị vợ cả hành hạ,
sanh ra đau buồn mà chết lúc xuân xanh. Ở bài La Thành Ca Giả, ông cũng thương khóc một nàng ca kỹ nổi danh tài sắc một thì nhưng chết yểu như Đạm Tiên, mồ hoang không kẻ đoái hoài. Ở bài Long Thành Cầm Giả,
ông tiếp lời Bạch Cư Dị, thán oán giùm số phận hẩm hiu của chị Cầm, một
con hát tài danh mà khi về già, son phai phấn lạt, khách tích lục tham
hồng chẳng ai thăm hỏi. Ở bài Sở Kiến Hành, Ông thương xót Mẹ con người ăn mày đói rét bơ vơ xứ lạ quê người. Đến bài Văn Tế Thập Loại Chủng Sinh, Ông kêu mời toàn thể những âm hồn oan khiên vất vưởng, lạc loài, không
khói không hương, cuối sông đầu chợ, về sum họp quanh ngọn lửa siêu sinh
của Lượng Từ Bi.
Còn Đoạn Trường Tân Thanh là gì nếu chẳng phải là truyện kể cuộc hành trình thống khổ tang thương của một khách tài tình trên con đường Định Mệnh?
Nói tóm, những nhân vật mà Nguyễn-Du trình diễn trong hầu hết các tác
phẩm của Ông, dù dưới hình dạng nào, trong hoàn cảnh nào, tựu trung
cũng chỉ là mỗi một nhân vật độc nhất, chỉ là một con người mang nặng
trên số kiếp dấu xâm nguyền rủa của sự lạc loài, một con người bị đời
sống bỏ quên, bạc đãi, hắt hủi, dày vò, chà đạp, chối nhận, xô đẩy vào
sự cô đơn sầu thảm bẽ bàng, vào những hoàn cảnh trái ngang, đứt ruột!
Lạc loài hơn nữa là con người đó của Nguyễn-Du hoàn toàn độc đáo
trong văn học Việt-Nam, không gặp người đồng cảnh với mình trong bất cứ
tác phẩm nào của những tác giả khác. Hãy so sánh và phân biệt con người
đó của Nguyễn-Du với nàng cung phi của Nguyễn-Gia-Thiều và người chinh
phụ của Đặng-Trần-Côn. Hai nhân vật sau này không phải là những kẻ lạc
loài, họ chỉ là những kẻ đã từng được đặt vào một hoàn cảnh thuận tiện,
chiều đãi, một hoàn cảnh mà họ mong mỏi được duy trì suốt kiếp, nhưng
rồi một lúc nào đó, họ lại bị du vào một hoàn cảnh khác, bị tước đoạt
tất cả hạnh phúc, cái hạnh phúc thật tầm thường mà cũng thật quí báu của
đời người, nên nặng lòng ấp ủ một kỳ vọng, ước muốn chính đáng trở về
hoàn cảnh cũ, sống lại đời sống cũ. Còn nhân vật của Nguyễn-Du không có
hoàn cảnh cũ để trở về, đời sống cũ để sống lại! Nhân vật của Nguyễn-Du
trên bước đường lạc loài, đi tìm một hoàn cảnh mới thích nghi hơn, dễ
sống hơn, một hoàn cảnh mà trong đó, kẻ tội đồ được ân xá, người oan
khiên dứt nợ!
Lưỡi sét Định Mệnh đánh xuống nhà họ Vương. Kiều một thân một mình
tình nguyện đứng ra giải họa cho cả gia đình, chọn lấy đường đi trên
những chỗ đoạn trường, chọn lấy đất đứng trên bình diện bi thảm [Arthur
Koestler trong một cuộc Hội-Thảo gần đây với các nhà văn Ấn-Độ ở
Calcutta,CChủ-Trương rằng con người có hai Bình-Diện sống: Bình-Diện
THẾ-TỤC - trivial plane và Bình-Diện BI-THẢM - tragic plane]. Nghệ sĩ là kẻ
bắt buộc phải bước đi trên giao tuyến của hai bình diện đó. Ngay khi
còn ở nhà Cha Mẹ, Kiều cũng đã đặt một chân vào bình diện bi thảm. Có
như vậy, tâm khảm Kiều mới bị đè nặng bởi mặc cảm đoạn trường, một mặc
cảm mà nàng mang vào tác phẩm và cả trong giấc ngủ. Vân và Quan thuộc
vào hạng thường nhân, chôn chặt chân trên bình diện thế tục. Thì chả
trách họ đã chẳng “NỰC CƯỜI” khi Kiều sụp quì trước mả Đạm-Tiên và thốt
ra những lời lẽ “KHÓ NGHE”!
Kiều đã sống hết mình, sống đến chỗ tận tình. Nàng đã đẩy cuộc đời
mình đến biên giới cuối cùng của nhân loại. Nàng yêu đến tận cùng tình
yêu, giận đến tận cùng thù hận. Cuộc đời ngoại hạng đó đã tạo Kiều thành
một con người được phóng đại; xin đừng ngộ nhận con người được phóng
đại với một siêu nhân. Vì siêu nhân là kẻ đã vượt quá tình trạng nhân
loại, cởi bỏ con người của mình biến thành một hữu thể khác. Còn con
người được phóng đại mang chứa những sự thật nhấn mạnh, đậm nét về con
người, những sự thật hiển hiện hơn để mọi người dễ nhận thấy!
Thành thử những nhà đạo đức đã ra ngoài phạm vi hoạt động sinh tử của
họ, khi gióng trống khua chiêng lên tiếng gắt gao buộc tội Kiều về
những hành động yêu đương quá trớn cũng như trả oán tàn ác của nàng. Vì
đạo đức chỉ là những thước tấc ước lệ của bình diện thế tục, dành cho
đám thường nhân, không thể dùng để đo lường Kiều, một con người được
phóng đại, cử động trên bình diện bi thảm. Cho đến khi Kiều tái hợp cùng
Trọng, lẽ ra nàng phải kết tóc se tơ cùng chàng – những người trong
cuộc đều muốn thế và có người đọc nào lại chẳng ước ao điều đó? Nhưng
trớ trêu thay, Nguyễn-Du, một lần nữa, lại bày ra cảnh rẽ duyên, đổi
tình CHỒNG VỢ ra tình TRI-ÂM!
Tại sao như vậy? Có người giải thích là Nguyễn-Du sợ hôn nhân sẽ hạ
thấp tình yêu, vì có sự thể hiện nào mà có thể sánh kịp những ý tưởng
còn đang tiềm tàng trong tâm não? Cách giải thích này thật là lãng mạn!
Cũng có người giải thích cho rằng đó là một trong những hành động tự do
của Kiều, nhưng tại vì sao Kiều lại làm hành động tự do đó? Hành động
nào, dù là một hành động tự do, cũng phải có đối tượng của nó, không ai
làm một hành động tự do chỉ vì tính chất tự do của hành động đó, coi là
một hành động Gratuit. Mà hành động của Kiều có đối tượng,
nguyên cớ hẳn hòi. Nàng đã ý thức được trong mười lăm năm thử thách tính
chất bi thảm của đời mình; nàng chỉ sống trên bình diện đó mới có thể
giữ vững bản ngã, nàng không thể nào ôm bản ngã bước qua bình diện thế
tục bằng cách kết duyên cùng Trọng. Giữa hai người bây giờ đã có bức
tường dầy của mười lăm năm thống khổ!
Thế nhưng tại sao Kiều lại lấy được Thúc-Sinh và Từ-Hải? Hãy nhìn lại
cả đời nàng. Nàng đã yêu Trọng khi nàng còn đứng trên bình diện thế
tục, dù là đứng một chân, và lẽ đương nhiên là nàng sẽ lấy chàng, nếu
như tai biến không rớt xuống nhà nàng. Bây giờ, sau mười lăm năm bướm
chán ong chường, trở lại mái nhà xưa, nếu nhận lời lấy Trọng tức nàng
thể hiện cái hình ảnh gương vỡ lại lành, bèo tan lại hợp, trở về bình
diện thế tục, cái bình diện của luân lý, lễ nghi, câu thúc, đàm tiếu, dư
luận, cái bình diện không thể nào dung túng nổi tính chất bi thảm của
đời nàng!
Còn Thúc-Sinh, Từ-Hải là những hình bóng nàng bắt gặp trên
bình diện bi thảm kia, giữa lúc nàng đang là bèo tan, gương vỡ. Lấy
Thúc-Sinh và Từ-Hải xong, nàng vẫn còn là mảnh gương vỡ, cánh bèo tan.
Việc
kết duyên cùng những nhân vật đó vẫn không thay đổi được nàng; nàng vẫn
còn lạc loài trên đất đai bi thảm!
Kiệt tác phẩm nào cũng có hơn một cánh cửa. Cánh cửa lớn mở vào Đoạn Trường Tân Thanh là ĐỊNH-MỆNH! Ngay khi sách vừa giở ra người ta đã thấy Nguyễn-Du ta thán
não nùng:
- Trăm năm trong cõi người ta.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
nhau.
Và ý niệm về thiên mệnh đó được Nguyễn-Du nhắc lại nhiều lần, dọc
mười lăm năm lưu lạc của Kiều, mỗi khi có dịp. Thành thử chẳng có người
đọc nào vô ý đi vào Đoạn Trường Tân Thanh bằng cửa ngách.
Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị viết tựa có câu:
- Kiều ngẫu nhiên mà
sinh ra, mà có sắc đẹp, mà lại đa tình, cho đến khi đi Thanh-Minh, khi
gặp Kim-Trọng, cũng đều là ngẫu nhiên cả cả đến lúc bị hãm ở thanh lâu,
lúc đã đâm đầu xuống Tiền Đường, lúc lại đoàn viên với Kim Trọng, cũng
đều là ngẫu nhiên cả!
Phong Tuyết đã nhấn mạnh tính cách ngẫu nhiên của truyện Kiều.
Chu-Mạnh-Trinh cũng ghi nhận ngay vai trò của ĐỊNH-MỆNH trong đời Kiều,
bằng
cách nêu lên giả thuyết:
- Giả sử, ngay khi trước, Liêu Dương cách trở,
duyên chàng Kim dừng dở việc ma chay, quan lại công bằng, án viên ngoại
tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mười mấy năm lưu lạc,
đem thân cho thiên hạ mua cười!
Phải, không có ĐỊNH-MỆNH thì làm gì có
chuyện Kiều. Không có Định-Mệnh thì làm sao giải thích nổi một lô sự
kiện mấu chốt của đời Kiều, một số động lực ma quỉ đưa dẫn Kiều đi lên
những chỗ đoạn trường gai góc. Tại sao thằng bán tơ không chọn một gia
đình nào khác gia đình họ Vương mà vu oan giá họa? Tại sao lại là gã ma
cô lừa lọc Mã-Giám-Sinh chớ không phải là một người đàn ông đứng đắn nào
hâm mộ sắc tài Kiều, mua cưới nàng! Tại sao như thế này chứ không như
thế khác? Vậy tất cả đã được an bài sẵn bởi Định-Mệnh. Cho đến hai lần
Kiều tự tận mà không dứt được nợ trần phải chăng cũng là do Định-Mệnh.
Định-Mệnh hiểu theo nghĩa bi đát, rùng rợn của nó? Tại sao không? Tại
sao ĐỊNH-MỆNH lại chẳng muốn cho người ta sống sót, chịu đựng thêm số
kiếp não nề?!
Nhưng Định-Mệnh đã hiện ra như thế nào trong Đoạn Trường Tân Thanh;
đó mới là điều đáng chú ý. Định-Mệnh, trong cái nhìn của Nguyễn-Du,
không phải là một Deus ex machino, một Định-Mệnh kiều Paul et Virginie,
chẳng hạn – chàng và nàng yêu nhau, nàng chết trong tai nạn đắm tàu,
chàng thương nhớ rồi chết theo. Định-Mệnh, theo quan niệm của Nguyễn-Du,
không phải là một tác động của ông Trời trực tiếp xuống con người trên
bãi chiến khép kín. Mà Định-Mệnh đã hiện ra trong Đoạn Trường Tân Thanh
dưới hình thù của xã hội, của đồng loại. Định-Mệnh đã sử dụng đến những
kẻ khác như những phương tiện để tác động gián tiếp trên cuộc sống của Kiều!
Thằng bán tơ, Mã-Giảm-Sinh, Tú Bà, Sở-Khanh, v. v… là những lá bài mà
Định-Mệnh đã dùng để đánh vào lá bài Kiều. Như vậy, Định-Mệnh là tổng
kết những tác động của đồng loại có liên quan ảnh hưởng đến cá nhân
mình. Là hậu quả sự cựa quậy của xã hội bao quanh một đời sống. Thành
thử khi đã đường đường lên ngôi vị một bà mệnh phụ phu nhân, Kiều xuống
tay trả oán tác động trở lại trên cuộc đời những kẻ khác, trở thành một
lá bài mới của Định-Mệnh đề đánh vào những lá bài kia. Chung quy, Kiều
cùng họ đều cáng đáng lấy những vấn đề liên đới hỗ tương nhau mà
Định-Mệnh đã dàn xếp sẵn!
Nhận định như vậy đề nhìn thấy rằng Nguyễn-Du đã đóng khung cá nhân
Kiều trong xã hội. Phải hiểu rộng quan niệm này của Nguyễn-Du, chớ nên
thu hẹp nó vào xã hội đương thời của ông, hoặc vô lý hơn, vào xã hội
thời Gia-Tĩnh. Vì quan niệm đó, Nguyễn-Du đã phóng nó lên bình diện nhân
bản trường cửu, chớ không đặt nó trên bình diện xã hội nhất thời. Cái
khung mà ông đã lồng cá nhân Kiều là một cái khung muôn đời cho mọi kiếp
sống. Có như thế, mới không hạ thấp giá trị của Đoạn Trường Tân Thanh, mới không giam chết nó vào một thời đại đã đi qua. Phải hiểu Đoạn Trường Tân Thanh
như tiếng kêu đứt ruột của con người nói chung mắc phải vòng vây nghiệt
ngã của xã hội muôn đời hiện hữu, chớ chẳng riêng gì của Kiều trong xã
hội thời Minh hay của Nguyễn-Du trong xã hội thời Ông!
Nhưng “CÓ TRỜI MÀ CŨNG TẠI TA”; đứng trước Định-Mệnh thảm khốc, con
người vẫn có quyền chọn lựa, vẫn có tiếng nói phê chuẩn của mình. Con
người dù sao vẫn tự do và chính Định-Mệnh đã làm nổi bật tự do của con
người trong những lần lựa chọn cam go. Không ai ép buộc Kiều phải bán
mình chuộc Cha cả. Trái lại, Vương ông còn cản trở nàng. Tại sao nàng
chẳng bắt chước Vân, một mực làm thinh, coi đại họa kia như không hề
dính dấp đến mình, mà lại phải hy sinh? Kiều đã hành động trong tự do,
đã rước lấy số kiếp đoạn trường với tư cách một người tình nguyện. Cả
thân thế Kiều cũng chứng tỏ nàng đã có đầy đủ tự do trong hành động.
Mười lăm năm lưu lạc của Kiều là một chuỗi dài nối tiếp những cố gắng
phấn đấu cải tiến số phận mình, vùng vẫy thoát ra những tình thế bức bách!
Thế sao đã nhận lời đi trốn cùng Sở-Khanh, lẽ hẳn nhiên là nhận sau
nhiều đắn đo cân nhắc, nhưng lúc sắp sửa rời bỏ cửa hàng của Tú Bà, Kiều
lại thốt lên:
- Cũng liều nhắm mắt dưa chân.
Thử xem con tạo xoay vần
đến đâu?
Có phải là nàng đã ngoan ngoãn khuất phục trước Định-Mệnh
không?
- Không, vì nếu đã khuất phục, nàng còn trốn theo Sở-Khanh làm gì nữa?!
Nếu số trời là như vậy, sao chẳng an nhiên ở lại với Tú Bà? Thành
thử không nên hiểu lời nói đó của Kiều như phương châm sống của nàng,
như một sự chấp nhận buông xuôi vô điều kiện của nàng trước Định Mệnh,
mà phải hiểu chân xác như một sự biểu hiện nỗi hoang mang, xao xuyến, lo
âu, nghi ngại của nàng trước một hoàn cảnh mơ hồ, vô định, may rủi,
tình cờ. Trạng thái tinh thần đó là hậu quả tất nhiên của một lần chọn
lựa. Nhưng dù hoang mang, xao xuyến, lo âu, nghi ngại đến chừng nào,
Kiều vẫn quả quyết hành động quả quyết dấn bước tới một tình thế mới
khác, một tình thế mà Định-Mệnh sẽ bày ra để cho Kiều quyết định nữa.
Người đọc Đoạn Trường Tân Thanh, ai cũng nhận thấy nhảy vào mắt mình
cái mâu thuẫn khổng lồ của Nguyễn-Du khi Ông vừa nhìn nhận có Định-Mệnh,
vừa nhắc nhở rằng con người, trong hoàn cảnh nào bất cứ, vẫn có tự do.
Mâu thuẫn đó của Nguyễn-Du không cần phải bàn cãi lôi thôi, mâu thuẫn đó
đích ra cũng là mâu thuẫn của mọi con người trong kiếp sống!
Dụng ý của
Nguyễn-Du có lẽ là đề nghị với chúng ta, bằng cách đối chọi Định-Mệnh
với tự do của con người, một phương cách đối phó hiệu quả cùng Định-Mệnh!
Phương cách đối phó đó như thế nào? Có phải là bằng tài trí của
mình không? Nguyễn-Du trả lời không. Ông đưa ra một kinh nghiệm, kinh
nghiệm Kiều, dùng làm minh họa!
Với những cố gắng vùng vẫy phấn đấu bằng tài trí của mình, Kiều đã
chẳng thu gặt được một kết quả nào khả quan, mong muốn. Mười lăm năm
sống mạnh của nàng đã kéo lê từ hoàn cảnh éo le phũ phàng này sang hoàn
cảnh éo le, phũ phàng khác. Trong mười lăm năm, chẳng lúc nào Kiều ngớt
làm một người bạc mệnh long đong. Để cuối cùng, nàng bỗng nhiên cởi bỏ
được một cách nhiệm màu số kiếp đoạn trường, vứt xuống Tiền Đường cho
dòng nước cuốn trôi đi như người ta vứt bỏ tiền thân trong một cuộc tái
sinh; Đó là lúc hợp thời Nguyễn-Du đưa ra giải pháp: Kiều được phóng
thích khỏi tiền oan, nghiệp chướng là nhờ ở “THIỆN CĂN” mà nàng đã chứng
tỏ, trau dồi trong mười lăm năm thử thách. Lúc này, Nguyễn-Du chẳng còn
là một thi sĩ tài hoa nữa mà đã trở thành một nhà luân lý thực tiễn!
Ông phủ dụ người đời:
- Thiện căn ở tại lòng ta.
Chữ tâm kia mới bằng ba
chữ tài.
Và đó cũng là thời kỳ duy nhất của đời Ông mà khuôn mặt Ông
biến đi những nét hằn đau, ray rứt dày vò những nét trai lơ phong tình
bỡn cợt, để sáng lên thanh thản, bình yên, điểm nhẹ một nụ cười mãn
nguyện vị tha của Đức Phật tham Thiền. Nguyễn-Du đã tìm thấy.
Thiên hạ vẫn thường có ý tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Đoạn Trường Tân Thanh.
Với ý hưởng đó, có người giải thích nỗi đau khổ mà Nguyễn-Du chồng chất
trong tác phẩm như là dấu ấn rành rành của xã hội loạn lạc thời Lê mạt
Nguyễn sơ trên tâm khảm Ông – Tâm khảm của một thiên tài lúc ban đầu như
khối sáp mềm dễ ấn khắc, nhưng khi đã ấn khắc rồi, nó sẽ biến thành
phiến cẩm thạch một đời không chạy nét. Cũng có người, cho rằng Ông viết
tác phẩm với mục đích giải bày nỗi lòng tưởng vọng LÊ Triều của một
hàng thần miễn cưỡng về dưới trướng Gia-Long!
Ở đây, những điều kiện xã hội và đời sống đó có thể là cần thiết để
hiệu nỗi đau khổ của Nguyễn-Du, không cần phải bàn xét lại. Vì một lẽ
hiển nhiên ai cũng biết là bất cứ tác giả nào, khi bắt đầu tác phẩm,
cũng đều khởi đi từ Tâm sự cá nhân nhỏ bé của mình. Nhưng nếu Tác giả là
một Thiên tài thì cuối cùng thế nào hắn cũng tìm nhập vào tâm sự rộng
lớn của đồng loại. Những văn tài hèn mọn sống và chết trong cái tên; còn
Thiên tài lấy đà ở cá nhân, phóng mình vào đồng loại. Do đó, tưởng
không nên bỏ công tìm hiểu làm gì tâm sự Nguyễn-Du. Mà chỉ xin nhìn
thẳng vào tác phẩm của Ông để ghi nhận một điều:
- Nguyễn-Du đã lấy nỗi
đau khổ của kẻ khác mà che nỗi đau khổ của riêng Ông. Ông vùi mình trong
đồng loại!
Thói thường, thi sĩ là “KẺ DỐT NÁT CHỈ BIẾT CÓ MÌNH THÔI”. Hắn hay
diễn tả và diễn tả hay về mình. Con sò không rời khỏi cái vỏ, Thi sĩ
không rời khỏi cái tên. Nhưng Nguyễn-Du chẳng thuộc vào giòng Thi sĩ đó:
- Ông ít nói đến cả nhân Ông mà lại thường nói về những kẻ khác!
Lục soát
khắp các tác phẩm của Ông, người ta vẫn không tìm gặp được bao nhiêu
tài liệu khả dĩ bổ túc tiểu sử vốn còn thiếu sót của Ông. Thế giới Ông
dựng lên trong Đoạn Trường Tân Thanh cũng như trong hầu hết các
tác phẩm khác, phức tạp, đông đảo bóng người chớ không phải là thế giới
hoang vu, kín mít chỉ có mặt mỗi mình Tác giả và một tấm gương soi!
Như vậy, Ông đã vượt quá tình trạng Thi sĩ, bước sang tình trạng Tiểu
thuyết gia. Ông thoát khỏi cái tên mà đi ra đời sống và biến mất. Tiên
Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đề tựa Đoạn Trường Tân Thanh có viết:
- … Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời thì không tài nào có cải bút lực ấy!
Trong bài tựa của Phong
Tuyết cũng có câu tương tự:
- … Ngổn ngang những biến cố ở trước mắt,
chồng chất những khối lỗi ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực mà
chép ra… - Thành thử không nên nghe Đoạn Trường Tân Thanh như
tiếng kêu Nguyễn-Du cất lên phản kháng xã hội mà ông sống!
Vì giản dị nó
không phải là một tác phẩm có ý hướng xã hội. Nó chỉ là tấn tuồng của
một cá nhân thôi.
BẰNG CỚ: Kiều trở về sum hợp với gia đình và không có
câu nào Nguyễn-Du dùng tuyên cáo là xã hội đã cải tiến. Và nhất là đừng
nhìn vào Đoạn Trường Tân Thanh như nhìn vào ruột gan của một
cựu thần hoài niệm nhà Lê mà phải thờ tân chúa. Vì giả dụ ý tưởng chính
trị này quả có hiện lên trong tâm khảm Nguyễn-Du khi Ông hạ bút gieo
vần, tưởng cũng chẳng phải là điều đáng để cho người sinh sau lưu ý đến:
Nếu Nguyễn-Du không là Thiên tài thì Ông đã chẳng là một khuôn mặt ra
gì trong lịch sử!
Có như vậy, mới không hạ thấp Thiên tài Nguyễn-Du, nên mới bỏ công ngồi đọc Đoạn Trường Tân Thanh,
nhận ra sự còn hợp thời ngày nay của nó và nhìn thấy thấp thoáng bóng
mình trong ba ngàn câu thơ quý thạch sáng choang kia. Truyện không còn
là chuyện của riêng Kiều, tâm sự không chỉ là tâm sự Nguyễn-Du. Chuyến
xe bạc mệnh chở con người lạc loài chạy xong mười lăm năm, còn chạy mãi
như bay trong cõi Hồng Trần!
Văn Nghệ là (nguyệt san) tạp chí tranh đấu Văn-Học - Nghệ-Thuật. Chủ nhiệm: Lý-Hoàng-Phong; Thư Ký Tòa soạn: Ngọc-Dũng; Trị sự: Phí-Ích-Nghiễm (tức nhà văn Dương-Nghiễm-Mậu); Tòa soạn và Trị sự: 554 Trương-Minh-Giảng,Sài-Gòn.
Số đầu tiên ngày 01 Tháng Hai 1961; Số cuối cùng (số 24) Tháng Sáu
& Bảy 1963. Cả thảy được 24 số. Từ số 1 (Tháng Hai 1961) đến số
24 (Tháng Sáu & Bảy 1963) được xem là Bộ cũ. Sau số 24, tạp
chí Văn-Nghệ tạm ngưng trong bốn tháng, và tiếp tục trở lại, gọi
là Bộ mới. Bộ mới chỉ ra được có hai số. Số 1 Bộ mới Tháng
Mười Một 1963, tức số 25; và Số 2 Bộ mới Tháng Mười Hai 1963, tức
số 26. Sau đó tạp chí đóng cửa vĩnh viễn! Không rõ nguyên do!
https://saigonnhonews.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét