Mỗi
lần có dịp qua Nam California, một trong những người đầu tiên tôi đến
thăm bao giờ cũng là Võ Phiến. Chủ yếu là vì tình thân. Tôi quen với khá
nhiều người cầm bút Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, nhưng người
tôi gần gũi nhất có lẽ là Võ Phiến. Gần, chủ yếu là vì, trong thời gian
viết cuốn Võ Phiến (2006), tôi đọc ông nhiều và rất kỹ; và cũng vì,
trong suốt thời gian chuẩn bị tài liệu cho cuốn sách ấy, kéo dài cả mấy
năm, tôi và Võ Phiến thường xuyên liên lạc thư từ với nhau. Thư, thoạt
đầu, khá khách sáo; sau, cứ dần dần thân thiết. Sự thân thiết, thoạt
đầu, giống như tình bạn, thứ bạn vong niên trong văn nghệ, dần dần,
giống như tình gia đình: Tôi xem Võ Phiến như một ông bác. Khi đã xem
như bác, việc thăm viếng trở thành một cái lễ, một thứ bổn phận.
Nói
đến khái niệm “lễ” hay “bổn phận”, tự dưng nhớ đến Nguyễn Mộng Giác.
Năm 1989, khi từ Pháp qua Chicago dự một cuộc hội nghị về văn học,
Nguyễn Mộng Giác rủ tôi bay về California chơi với anh vài ngày. Vừa ra
khỏi phi trường Los Angeles, Nguyễn Mộng Giác bảo đứa con gái, người ra
đón chúng tôi, chở thẳng đến nhà Võ Phiến; tối, về nhà anh, ăn cơm xong,
Nguyễn Mộng Giác lấy xe chở tôi đến thăm Mai Thảo. Trên đường, anh nhỏ
nhẹ bảo, đó là cái lễ đối với các bậc trưởng thượng trong làng văn. Tôi
hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì. Tôi vẫn kính trọng cả Võ Phiến lẫn
Mai Thảo và xem hai người như những đại thụ có nhiều thành tựu và đóng
góp không những cho văn học ở miền Nam trước năm 1975 mà còn cả cho văn
học Việt Nam ở hải ngoại sau năm 1975. Nhưng tôi không xem việc thăm
viếng họ như một bổn phận. Với tôi, chỉ có bổn phận trong văn học chứ
không có bổn phận về phương diện xã hội. Và trong văn học, cách bày tỏ
sự kính trọng tốt nhất đối với các thế hệ cầm bút đi trước, ngay cả với
những người tài hoa nhất, là đọc họ rồi vượt qua họ, kể cả chống lại họ,
hoặc nếu không, viết khác họ.
Mà
kể cũng lạ. Trong giới cầm bút nổi danh trước năm 1975 sau này sống ở
hải ngoại hầu như chỉ với Võ Phiến là tôi xem như một ông bác. Với những
người khác, ngay cả với Mai Thảo, chỉ nhỏ hơn Võ Phiến một tuổi, tôi
chỉ xem như là anh. Nói chuyện với Mai Thảo, theo đề nghị của chính ông,
tôi gọi bằng “anh” và xưng “em”. Không những vậy, có lúc tôi còn xem
ông như một đứa em nữa là khác. Đó là những lần, lúc tôi còn ở Paris,
ông bay từ California sang chơi. Sau khi ăn uống hay đi dạo phố, đưa ông
xuống trạm xe điện ngầm để về nhà Trần Thanh Hiệp, nơi ông ở trọ, sau
khi dặn dò đường đi nước bước, rồi nhìn cái ánh mắt lúc nào cũng mơ mơ
màng màng, cái dáng người cao lêu khêu và cái bước chân hơi xiêu xiêu
của ông, tự dưng tôi thấy bất an. Sợ ông đi lạc. Sợ ông băng qua đường
ẩu, xe đụng. Sợ vu vơ đủ thứ. Như sợ cho một đứa em ngơ ngác giữa phố
lạ. Những lúc ấy, tôi quên bẵng là ông đã từng qua Paris nhiều lần và
rất giỏi tiếng Pháp. Với Võ Phiến, chưa bao giờ tôi có cảm giác ấy. Nhìn
ông và nói chuyện với ông, tôi có cảm giác như đang đối diện với một
ông lão mới từ quê lên. Từ dáng dấp đến vẻ mặt, có vẻ gì hơi hơi thật
thà, hơi hơi quê mùa, nhưng đôi mắt của ông thì khác: Lúc nào cũng tinh
anh, cũng nhanh nhẹn, toát lên vẻ gì vững vàng, có thể đương đầu với mọi
tình huống và mọi bất trắc.
Chuyến
đi Mỹ thứ hai của tôi là vào cuối năm 2007. Tôi đi với Hoàng Ngọc-Tuấn
và Võ Quốc Linh. Ông bà Võ Phiến khăng khăng mời tôi về nhà ở. Từ chối
mấy cũng không được, tôi bèn giao hẹn: Chỉ ở hai ngày đầu, sau đó, sẽ ra
ở khách sạn với bạn bè để được tự do và thoải mái, có thể đi sớm về
khuya bất cứ lúc nào cũng được, không áy náy về việc gây phiền hà cho
người khác. Ông bà đồng ý. Khi chúng tôi đến, ông bà rất mừng rỡ, nói
chuyện huyên thuyên, sau, dẫn chúng tôi lên lầu và chỉ phòng: “Phòng này
là của anh Hoàng Ngọc-Tuấn; còn phòng này là của anh Nguyễn Hưng Quốc.”
Trong lúc chúng tôi dọn dẹp đồ đạc và thay quần áo sau chuyến bay dài
dằng dặc mười mấy tiếng đồng hồ từ Úc sang, hai ông bà xuống tầng dưới
ngồi uống trà chờ. Khoảng 15 phút sau, khi tôi từ trên lầu bước xuống,
Võ Phiến đang ngồi trên chiếc ghế mây ở phòng khách, đứng bật dậy, nhào
đến cầm tay tôi lắc lắc, mừng rỡ: “Anh Quốc, anh mới ở Úc qua hả? Trời
ơi, lâu quá!” Tôi hơi giật mình, nhưng vội giữ vẻ bình thản, đáp: “Vâng,
cháu mới qua. Bác khỏe không?” Suốt ngày hôm ấy cũng như ngày hôm sau,
cứ mỗi lần tôi đi ra ngoài chơi, trở về nhà, ông cũng đều chào đón một
cách rất niềm nở ngay từ cửa: “Anh Quốc, anh mới ở Úc qua hả?” Lúc ấy,
lần đầu tiên tôi nhận ra chứng bệnh của ông: bệnh mất trí nhớ
(Alzheimer’s). Có lẽ chỉ ở giai đoạn sơ khởi: mất trí nhớ ngắn hạn. Nói
chuyện, ông vẫn kể vanh vách các kỷ niệm liên quan đến Chế Lan Viên và
Lam Giang lúc ông còn học ở Qui Nhơn, đến Hoài Thanh và Đào Duy Anh lúc
ông học ở Huế. Ông nhắc đến thơ Đường, thơ Tống, tranh Tề Bạch Thạch,
các trào lưu văn học ở Pháp trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Chỉ có
điều là ông hay lặp lại các câu chuyện ông mới kể. Có lúc, trong một
buổi ăn trưa, ông kể chuyện tranh của Tề Bạch Thạch đến hai ba lần. Lần
nào cũng say sưa, mạch lạc, rất sinh động và cũng rất sâu sắc.
Sau
đó, hầu như năm nào tôi cũng sang California và năm nào cũng ghé thăm
Võ Phiến. Thân thể ông vẫn khỏe mạnh, da dẻ ông vẫn hồng hào, nụ cười
ông vẫn hiền lành, giọng nói ông vẫn chất phác, nhưng tai ông càng lúc
càng nặng và bệnh mất trí nhớ càng lúc càng trầm trọng. Ông ít nói hẳn.
Trong các buổi họp mặt hay ăn uống chung, ông chỉ ngồi lặng lẽ cười, lâu
lâu cất lên lời than thở: “Tôi lú lẫn rồi anh ơi! Tôi là người bỏ đi
rồi!” Vừa nói vừa lắc đầu, đôi mắt ánh lên vẻ buồn rười rượi. Đến thăm,
tôi chỉ nói chuyện với bà Võ Phiến là chính; còn ông, sau những cái bắt
tay mừng rỡ và nồng ấm, lại ngồi lặng lẽ. Lâu, lâu lắm, mới góp tiếng.
Thường là những câu chuyện cũ. Và những lời than vãn. Than không viết
được. Rồi than không đọc được.
Giữa
năm 2013, tôi sang California và thăm Võ Phiến. Gặp, ông vẫn mừng rỡ
cầm tay tôi lắc tới lắc lui. Ông nhận ra tôi nhưng ông không nhớ tên
tôi. Chủ yếu tôi chỉ nói chuyện với bà. Chưa bao giờ tôi thấy một người
phụ nữ nào yêu chồng và chăm sóc cho chồng một tận tụy, chi li và tỉ mỉ
như bà Võ Phiến. Bà lo cho ông từng miếng ăn, từng tách trà, từng viên
thuốc. Bà đánh máy từng trang bản thảo viết tay của ông. Bà lo cho danh
tiếng và sự nghiệp của ông. Bà quan tâm đến từng lời khen tiếng chê
chung quanh. Đọc những bài báo có ác ý về ông, bà tức lồng lộn, vừa kể
vừa chì chiết. Còn Võ Phiến thì vẫn ngồi lặng lẽ, miệng vẫn cười hiền
lành nhưng ánh mắt thì nhìn vào khoảng không trước mắt, buồn buồn, xa
vắng. Lâu lâu ông chép miệng thở dài: “Tôi lú lẫn quá rồi anh ơi!”
Lần
ấy, bà Võ Phiến đưa tôi bức thư ông Võ Phiến viết ròng rã trong mấy
tháng trước đó nhưng chưa kịp (hoặc quên) gửi. Thư không đề ngày. Toàn
bộ nội dung như sau:
Thân gửi anh Nguyễn Hưng Quốc,
Rốt cuộc rồi tôi cũng đi tới một quyết định: Phải viết cho được một lá thư gửi tới một số anh em chí thiết.
Tự
dưng hơn nửa năm nay tôi phát lú. Rồi lú nặng. Quên thật mau dĩ vãng
của mình. Quên lung tung, thật mau. Từ lâu tôi nặng một tai; năm bảy năm
nay chỉ nghe được một tai. Gần đây, tai ấy cũng nghỉ luôn.
Một
người ngẩn ngơ, nghe được ít, lấy làm khó chịu mỗi khi gặp có người
khác: Tôi trốn lần, trốn lần. Nhà tôi đại diện, bận bịu quá trời.
Điếc, quên – cả cặp ấy xúm nhau biến tôi thành kẻ ngớ ngẩn.
Tôi
trốn tiếp xúc với người, lẩn thẩn đọc sách. Đọc mỗi lúc một thêm vất
vả: đọc đâu quên đó. Dần dần sách nào cũng hoá khó hiểu. Sợ sách, rồi
ngán luôn cả báo.
Tôi thành đứa vất đi rồi anh ơi.
Tôi
tìm nguyên do. Nhớ lại mười mấy năm trước, hồi còn ở xóm Glendale bên
Los Angeles – xóm nhỏ - đa số là dân da đen. Một hôm, độ bảy tám giờ tối
gì đó, tôi đi dạo trước mặt nhà, gặp chỗ vắng, thiếu ánh sáng, thình
lình bị một tên da đen đánh mạnh vào mặt. Tôi ngất. Nó lục túi lấy chẳng
bao nhiêu (vì mình đi dạo bộ cho tiêu cơm trước mặt nhà). Tỉnh ra, tôi
được đưa đi bệnh viện. Rồi yên. Nhưng đầu óc hư hỏng – chắc là từ đó.
Bây giờ càng lúc càng tệ. Trí óc hết xài.
Nhà tôi khổ sở vì tôi, vất vả quá trời.
Tôi năm nay 86 tuổi ta. Già quá rồi. Nay mai, chịu hết thấu, ra đi cũng phải thôi.
Cả
tháng nay tôi yên trí là mình đang lủi thủi đi về cõi khác. Định đi êm,
không nên kể lể vớ vẩn với ai làm gì. Chuyện xoàng quá. Không đáng trầm
trồ.
Nhưng rốt cuộc rồi thấy nên để dăm ba kẻ thân thiết. Chuyện nhảm mà trịnh trọng bảo mật, e kỳ cục.
Thân chúc anh chị và các cháu mọi sự an lành.
Võ Phiến
Đọc,
tôi thấy buồn hiu hắt. Có cảm tưởng như nghe một lời trối trăng. Chuyến
ấy, tôi ở Nam California chỉ có khoảng hơn một tuần, nhưng tôi vẫn
tranh thủ ghé đến thăm ông bà Võ Phiến đến ba lần. Tôi sợ, khi về lại
Úc, sẽ không còn cơ hội để gặp ông lần nữa. Lần thăm cuối cùng, ông bà
dẫn tôi đi ăn trưa ở một tiệm Mỹ trong cái công viên gần nhà. Suốt bữa
ăn, Võ Phiến hỏi tôi mấy câu. Hỏi đi rồi hỏi lại.
“Văn học trong nước hiện nay có gì lạ không, anh?”
Tôi đáp: “Cũng chả có gì lạ bác ạ. Không thấy xuất hiện cây bút nào thật mới và thật hay.”
Ông
tặc lưỡi: “Cả nước đến mấy chục triệu người mà không có ai viết hay cả.
Lạ nhỉ? Tôi không biết gì cả. Tôi lú lẫn rồi anh ơi!”
Rồi ông ngồi im, nhìn mông vào quãng trống trước mặt. Năm mười phút sau, ông lại hỏi:
“Chế Lan Viên bây giờ ra sao, hả anh?”
Tôi đáp: “Chế Lan Viên mất lâu rồi, bác ạ.”
Ông lại tặc lưỡi: “Vậy hả? Tôi nghiệp quá! Tôi lú lẫn rồi, không nhớ gì nữa cả.” Rồi ông lại hỏi:
“Anh nghĩ ở trong nước bây giờ người ta có đọc tôi không, hả anh?”
Tôi đáp: “Có chứ. Một cuốn sách của bác mới được in lại ở trong nước, được nhiều đọc và nhiều người khen lắm.”
Ông lại tặc lưỡi: “Lạ nhỉ? Không ngờ người ta lại cho in lại sách của tôi.”
Im lặng một lát, ông lại hỏi:
“Anh thấy văn học ở trong nước bây giờ thế nào hả anh?”
Tôi lại đáp: “Không có gì đặc biệt cả, bác ạ.”
Và
ông: “Lạ nhỉ. Nước đến mấy chục triệu người mà không ai viết hay. À, mà
Chế Lan Viên bây giờ sao, hả anh? Ổng còn viết lách được gì nữa không?”
“Không. Ổng mất năm 1989, hơn 20 năm rồi, bác ạ.”
“Ồ, tội nghiệp quá! Tôi lú lẫn quá, không nhớ gì nữa cả. À, mà bây giờ ở trong nước có ai còn đọc tôi nữa không, anh?”
“Có chứ, bác. Sách bác mới được in lại ở trong nước đó.”
“Lạ nhỉ. Nhưng văn học ở trong nước có gì lạ không, anh?”
Cứ
thế, chừng ấy câu hỏi, trong suốt buổi ăn trưa, được ngắt quãng bởi
những lúc trầm ngâm im lặng và ngó mông vào khoảng trống. Với mỗi câu
hỏi, để trả lời, tôi cứ lặp lại, thật ngắn gọn, nhấn mạnh từng chữ, phát
âm thật to để ông có thể nghe được. Bà Võ Phiến nhìn tôi, rươm rướm
nước mắt, có lẽ vừa thương chồng vừa áy náy cho tôi. Trên đường về nhà,
bà thì thầm với tôi, giọng nghẹn ngào: “Bác thương bác trai quá. Một
người thông minh sắc sảo đến như vậy mà bây giờ đâm ra nghễnh ngãng, lẩn
thẩn, thật tội nghiệp!” Tôi vừa an ủi bà vừa nghĩ ngợi bâng quơ về các
câu hỏi của ông. Chúng tiết lộ những ám ảnh sâu xa không ngừng day dứt
trong tiềm thức của ông ngay cả khi ông không còn nhớ gì cả. Ông nhớ
những người bạn, những người thầy, những người quen biết cũ. Ông loay
hoay muốn biết về tình hình văn học Việt Nam. Ông tò mò về sức sống của
những gì ông đã viết.
Và
ông cũng không ngớt dằn vặt về những cái quên ngớ ngẩn của mình. Nét
tâm lý đầu phổ biến đối với mọi người lớn tuổi; hai nét kế tiếp phổ biến
trong giới cầm bút; nét thứ tư mang tính đặc thù của Võ Phiến: ý thức
tự giác rất cao, lúc nào cũng tự quan sát chính mình như một người ngoại
cuộc. Trước, lúc còn khỏe, thói quen tự quan sát ấy biến ông thành một
trong vài nhà văn có khả năng phân tích giỏi nhất của Việt Nam thời kỳ
1954-75.
Bây
giờ, khả năng tự quan sát ấy chỉ làm cho ông bất an. Trước, qua việc tự
quan sát, thấy những cái yếu đuối của con người được phản ánh qua tâm
hồn của chính mình, ông đâm ra yếm thế và hay châm biếm; bây giờ, thói
quen tự quan sát ấy chỉ biến ông thành một người đầy mặc cảm: lúc nào
ông cũng sợ lộ vẻ ngớ ngẩn dưới mắt người khác, do đó, ông tránh né đám
đông; khi không thể tránh né được, ông chỉ ngồi lặng lẽ tự gặm nhấm
những nỗi khổ của một người tự thấy mình đang trôi dần trôi dần vào cái
chết.
Võ
Phiến không mất trí nhớ hẳn. Thường, ông chông chênh, chòng chành và
lãng đãng giữa nhớ và quên. Cái ông hay quên nhất có lẽ là những cái
mới. Mới, thoạt đầu, từ câu nói vừa thốt đến công việc vừa làm; sau, dần
dần bao gồm cả nhiều năm hoặc có khi nhiều thập niên về trước. Một lần,
trong bữa ăn trưa tại nhà ông, nhà văn Ngự Thuyết nghịch, hỏi Võ Phiến
tên của những người ngồi cùng bàn. Tên tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn: ông không
nhớ. Tên của ba người bạn ở ngay tại California và thường xuyên đến
thăm ông, Ngự Thuyết, Trúc Chi và Phạm Phú Minh: Ông cũng không nhớ. Ông
chỉ nhớ được tên hai người: Đỗ Quý Toàn và Lê Tất Điều, hai người ông
quen biết ở Sài Gòn từ trước năm 1975. Cuối năm 2013, tôi gửi tặng ông
cuốn Văn học Việt Nam tại Úc: Chính trị và thi pháp của lưu vong mới
xuất bản tại Úc qua nhà văn Phạm Phú Minh. Mấy tuần sau, Phạm Phú Minh
email cho tôi, kể:
Quốc thân,
Hôm nay nhân Thành Tôn và ông Văn Nghệ có việc đến nhà ông bà Võ Phiến, anh đã nhờ họ mang cuốn sách của Quốc cho ông bà.
Thành
Tôn kể lại, ông Võ Phiến cầm cuốn sách xem rất kỹ rồi hỏi: ông Nguyễn
Hưng Quốc này là ai mà in sách đẹp đẽ sang trọng quá thế này? Thành Tôn
nói ông ấy dạy đại học bên Úc thì ông Võ Phiến nói: Hèn gì!”
Đọc,
tôi không ngạc nhiên, nhưng vẫn buồn. Buồn đến độ mãi đến ngày mồng 8
(tức ngày 7 tháng 2 năm 2014), tôi mới gọi được cho ông để chúc Tết một
cách muộn màng. Lạ, lần này, ông lại tỉnh táo một cách lạ thường. Khi bà
Võ Phiến chuyển điện thoại và bảo Nguyễn Hưng Quốc gọi, ông rối rít:
Anh Quốc hả? Trời ơi, anh ở Úc hay đang ở Mỹ vậy?
Dạ, cháu đang ở Úc.
Trời ơi, ở xa vậy mà gọi điện thoại, quý quá. Nhưng tốn tiền lắm, anh ơi.
Không sao đâu, bác ạ. Bây giờ gọi điện thoại viễn liên rẻ lắm.
Tháng 7 này anh có qua Mỹ không?
Dạ, không. Tháng 12 cháu mới qua.
Ồ,
còn cả 10 tháng nữa, không biết tôi có còn hay không. Năm nay tôi đúng
90 rồi, bết bát lắm, anh ơi. Tôi chẳng còn đọc hay viết gì được nữa cả.
Hỏng hết rồi.
Thôi, cũng đâu cần đâu, bác. Bác đọc và viết cả đời rồi. Bây giờ bác cố nghỉ ngơi để giữ gìn sức khỏe.
Anh định sống luôn ở Úc hay có về Việt Nam sống không?
Tôi thì hết hy vọng rồi. Chỉ có chết ở Mỹ thôi.
Cũng
chẳng sao, bác ạ. Về bằng tác phẩm được rồi. Gần đây, ở trong nước,
người ta bắt đầu in lại sách của bác, tổ chức hội thảo về bác đó. Ai
cũng khen cả.
Vậy
hả, anh? Trời, tôi chẳng biết gì cả. Bây giờ tôi lú lẫn, đọc ít lắm.
Những điều anh vừa nói, tôi mới nghe lần đầu. Lạ quá, phải không anh?
Cứ thế, dù giọng ông hơi yếu, nhưng câu chuyện vẫn trôi chảy mạch lạc, không có dấu hiệu gì lẫn cả.
Tháng
12 năm 2014, tôi sang California và ghé thăm ông bà Võ Phiến mấy lần.
Chỉ nói chuyện được với bà. Còn ông thì ngồi im lặng ngó lung về phía
trước. Không thể đoán được lúc ấy ông đang nhìn gì và nghĩ gì. Chỉ thấy
xa vắng và cùng với sự xa vắng, sự mênh mông, ở đó, tôi đoán, ông không
thấy ai trước mặt, không thấy khung cửa kính trong suốt, không thấy hàng
cây xanh lá đang lao xao với gió, không thấy bầu trời đầy nắng và thưa
thớt mây; ông chỉ thấy khoảng trống thăm thẳm, vời vợi, không cùng. Ý
tứ, chưa bao giờ tôi hỏi ông có sợ không. Nhưng trong một bức thư nào đó
gửi tôi, ông bày tỏ: Không. Ông diễn tả một cách dí dỏm, đại khái, ông
Trời tinh tế lắm: Ổng làm cạn kiệt sức sống trước khi lấy hẳn đi sự sống
của con người. Sự mệt mỏi khiến người ta bớt sợ. Không sợ nhưng tôi
đoán, vẫn lo. Trước cuộc viễn du vào cõi vô tận ấy, tôi nghĩ, ai cũng
lo. Người thường lo cho con, cho cháu, cho chắt. Người cầm bút còn thêm
một nỗi lo khác: các tác phẩm của mình. Với người cầm bút, bất cứ người
cầm bút nào cũng vậy, điều mong muốn đầu tiên bao giờ cũng là được đọc;
điều mong muốn lớn nhất và tha thiết là được đọc lại, đọc lại mãi, không
phải bởi một người hay một số người mà là bởi nhiều thế hệ, những thế
hệ, nói theo Trần Tử Ngang, nhà thơ thời sơ Đường, “lai giả”, những kẻ
mình không bao giờ gặp và biết. Khi Nguyễn Du viết “Bất tri tam bách dư
niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”, thật ra, tự thâm tâm, ông chỉ
muốn hỏi: sau này, mấy trăm năm sau, có ai còn đọcTruyện Kiều của ông
không? Võ Phiến, với căn bệnh Alzheimer’s quái ác, có thể không nhớ tên
bạn bè thân thiết, không nhớ ai còn ai mất, không nhớ những gì ông đã
viết và đã xuất bản, không nhớ ngay những gì ông vừa mới nói, vẫn đau
đáu một ám ảnh: Có ai còn đọc ông không?
2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét