Xuân Hương trở lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, Nguyễn Du về quê một tháng, sau đó được lệnh vào Phú Xuân thăng Đông Các học sĩ hàm ngũ phẩm, tước Du Đức Hầu, chức vụ dâng sách cho vua đọc mỗi ngày, và soạn thảo chiếu biểu cho vua. Gia Long.
Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết:
Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu. (Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư).
Xuân Hương trả lời:
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Em đã trở về, em không chết như nàng Tiểu Thanh đâu ?
Vườn cảnh có tay em chăm sóc đã xinh đẹp như cũ.
Người đồng châu, cùng quê Nghệ Tĩnh với em biết bao giờ trở lại.
Nhật Tân đê lở, như duyên em dù lỡ làng cũng còn lối vào,
Chùa Trấn Quốc rêu phong vẫn còn lưu lại bài thơ em viết ngày nào, đề thơ cùng chàng.
Nơi vực Trâu vàng, Hồ Tây trăng đà lặn bóng,
Kìa non Phượng đất chỉ thấy khói tuôn mờ những kỷ niệm đôi ta.
Hồ kia sâu thăm thẳm bao nhiêu
Cũng không bằng lòng em nhớ chàng.
*
Chơi Tây Hồ nhớ bạn
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng châu trước biết bao giờ.
Nhật Tân đê lỡ nhưng còn lối,
Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ,
Nọ vực Trâu vàng trăng lặn bóng,
Kìa non Phượng đất khói tuôn mờ.
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài nhân dễ chửa vừa.
*
Bản chữ Nôm Ngân Triều soạn
𨔈 西 湖 𢖵伴
風景西湖拯恪𠸗
𠊛同州𠠩别包𣇞
日新堤𨓐礽群𡓃
鎮國𧄈風吻泿詩
奴淢𤛠鐄綾𣵰䏾
箕𡽫鳳地𤌋澊𤎎
湖箕探瀋溇羕買
摳腋懷人𥚯渚𣃣
*
Thăm thẳm hồ sâu, hồ thẳm thẳm,
Nào bằng da diết, nhớ người mơ?
(Ảnh minh họa, Google :Hồ Tây )
*
Ngân Triều cảm đề:
Chơi Tây Hồ nhớ bạn
Còn đây, nào khác, cảnh Tây Hồ,
Người cũ đồng châu, vẫn nhớ chờ.
Đê lở Nhật Tân, chưa hết lối,
Rêu phong Trấn Quốc vẫn còn thơ.
Trâu vàng kìa vực trăng lồng bóng.
Non Phượng nào đâu dải khói mờ?
Thăm thẳm hồ sâu, hồ thẳm thẳm,
Nào bằng da diết, nhớ người mơ?
*
Ghi chú:
Tượng đài Cụ Nguyễn Du:
Tượng đài Cụ Nguyễn Du ở Khu lưu niệm, thuộc làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 50km, cách Tp. Vinh (Nghệ An) khoảng 8km.
Nguồn: TL Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình của HXH và ND/ Ts Phạm Trọng Chánh
***
Bài số 25:
Cảm cựu kiêm trình
Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu
Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương gặp Nguyễn Du trên đường đi sứ năm 1813…
Tháng 2 năm Quí Dậu 1813 Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Học Sĩ tước Du Đức Hầu, được chọn làm Chánh Sứ đi tuế cống triều nhà Thanh. Thiêm sự Bộ Lại Trần Văn Đại, Thiêm sự Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm Phó Sứ. Cống phẩm gồm: 200 lạng vàng, 1000 lạng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế; Sứ đoàn gồm 27 người, đi đến mỗi địa phương đều có bàn hương án và quan quân hộ tống. Đoàn đi từ Phú Xuân đến Vị Hoàng bằng thuyền và từ đó đi đường bộ. Theo gia phả con đầu là Nguyễn Tứ, 12 tuổi, có theo cha đi sứ.
Tin này ra đến Thăng Long, Hồ Xuân Hương đã gửi đến Nguyễn Du bài thơ: Cảm cưụ kiêm trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân). Bài thơ này là một chứng cớ rõ ràng, không thể chối cải, nhưng thoạt đầu chẳng mấy ai tin. Ngay cả Xuân Diệu đọc bao nhiêu lần cứ viết: Xuân Hương phục người có tài hơn mình. Chẳng ai tin việc này, vì là thật nó kéo theo sự sụp đổ của một Hồ Xuân Hương dâm tục cả thế kỷ đã bàn tán và viết về nàng. Có thể toàn bộ sách giáo khoa viết về Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du phải viết lại.
.Chàng đi sứ hoàng hoa, xa quê hương, nơi đất khách ngàn dặm lòng em muôn nghìn nỗi nhớ nhung.
.Mượn ai tới đó để gửi thơ cho chàng, nói rõ tấm lòng em.
.Chữ tình đôi ta ba năm trọn vẹn (1790-1793),
.Nhưng rồi tình như mộng như bài thơ Ký Mộng chàng đã gửi cho em, tan mộng rồi chẳng còn thấy nhau.
.Em trộm mừng cho chàng từ ngày ra làm quan, hãnh tiến, xe ngựa đưa đón, có nhiều thê thiếp, nhiều mối duyên tình.
.Riêng phận em là gái, phấn son càng tủi cho mình số kiếp long đong.
.Biết chàng có bịn rịn vấn vương đến mối tình em,
.Nơi Cổ Nguyệt đường, em vẫn mãi cùng đèn soi bóng, bâng khuâng thao thức, suốt năm canh.
Nguồn: TS Phạm Trọng Chánh, Mối tình của Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du.
*
Nhớ Người Cũ
Hồ Xuân Hương
Viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu
Tiên Điền-Nghi Xuân (tức Nguyễn Du)
*
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, (1)
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng. (2)
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, (3)
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không (4)
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, (5)
Phấn son càng tủi phận long đong. . (6)
Biết còn mấy chút sương siu mấy, (7)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.(
[*] Đăng lại bổ sung bài nhớ người cũ trang 244
*
Văn bản chữ Nôm Ngân Triều soạn:
𢘾𠊚𡳰
𨤮 揢閍𠦳浽𢘾絨
摱埃細帝 𠳚㧣穷
𡨸情祝㐌 𠀧𢆥院
𠺵夢𠱤𦋦 姅克空
𦀺馭濫𢜠 沿笠𨃺
坋崙乾𢣃分滝 𢫝
别群買㤕 霜超買
樓月𠄼更隻䏾 炵
*
Chú giải:
(1) Nhớ người cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu. Sau đầu đề trên, tác giả có chú: "Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân" - "Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân" - Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh - Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.
Dặm khách: 𨤵 揢 ,thời gian Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.
Sương siu mấy: 霜 超 氽 Từ xưa phiên âm là sương đeo mái. Nay phiên âm theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn như trên.
sương siu: 霜 超: vấn vương
Tấp nập: 笠𨃺: rộn rịp, đông đảo.
long đong: 滝 𢫝: vất vả khó nhọc vì gặp phải nhiều điều không may.
( Không biết có phải là Sương cư: 孀 居: ở góa hay không.Theo Việt Nam Tự Điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, xb năm 1931, trang 501: sương: 孀: góa bụa; sương cư: 孀 居: Ở góa). Bấy giờ Hồ Xuân Hương đang tình cảnh góa bụa)
Chong: 炵: để cháy sáng trong một thời gian rất lâu. Ở đây là ngồi rất lâu trước đèn, một mình, một bóng.
Đại ý:
(1-2): Nỗi nhớ nhung mênh mông.
(3-4): Tình và mộng.
(5-6): Trộm mừng và tủi phận.
(7-8): Nỗi niềm của tác giả.
Diễn ý:
Người đi sương gió, dặm khách xa xăm; người ở chạnh lòng, nhớ nhung muôn nỗi.
Biết có ai đi đến nơi ấy, để gửi bao thương nhớ cho cùng.
Chuyện tình mình gắn bó đến nay, phút chốc đà ba năm vẫn vẹn.
Thường gặp nhau trong giấc mộng vàng; chợt tỉnh mộng chỉ là hư ảo!
Trộm mừng người công danh hãnh tiến; tơ duyên nay đông đúc vui vầy.
Cảm nỗi phận mình, tủi cho số kiếp long đong.
Vương vấn tơ lòng, còn mảy may nào không nữa?
Chong đèn trên lầu nguyệt, năm canh, ta mãi nhìn bóng ta trơ trơ.
*
Thái Hy họa thơ:
Dặm khách người đi, bao nhớ nhung,
Biết ai đem đến gửi cho cùng.
Ba năm chốc đã… tình luôn vẹn,
Chợt tỉnh bàng hoàng, ảo mộng không.
Tấp nập trộm mừng duyên hãnh tiến,
Lẻ loi càng tủi phận long đong.
Có còn mấy chút vương thương nhớ?
Lầu nguyệt năm canh trơ bóng chong.
*
Long đong còn chút vương thương nhớ!
Thương nhớ canh tàn trơ bóng chong.
Ảnh minh họa Google.
*
Ngân Triều họa thơ:
Dặm khách sơn khê, bao nhớ nhung,
Nhớ nhung ai biết gửi cho cùng.
Cho cùng thương nhớ, ba năm vẹn,
Năm vẹn bàng hoàng, giấc mộng không.
Giấc mộng trộm mừng duyên thuận nẻo,
Thuận duyên càng tủi phận long đong.
Long đong còn chút vương thương nhớ!
Thương nhớ canh tàn trơ bóng chong.
*
Ghi chú:
Vực Trâu vàng: tích Sư Minh Không quốc sư Triều Lý xin đồng nhà Tống về đúc chuông, tiếng chuông ngân xa, con trâu vàng trong cung nhà Tống ngỡ tiếng mẹ kêu, chạy sang Hồ Tây tìm mẹ và biến mất trong khu vực này. Phủ Tây Hồ còn có đền thờ Trâu Vàng và đền bà Chúa Liễu Hạnh.
Non Phượng đất: hay Gò mõ phượng, gò đất nhô ra ở Hồ Tây, nay thuộc khu vực Trường Bưởi, Chu Văn An. Người vợ đầu họ Đoàn mất, Nguyễn Du cưới bà vợ họ Võ sanh một con, để cai quản gia trang Tiên Điền, và có bà vợ thứ ba theo hầu bên cạnh nên sanh luôn một chục đứa con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét