Công bố thi tập "CON ĐƯỜNG THI SỸ" của nhà thơ CHU NGẠN THƯ
một tác phẩm giá trị thi ca-lịch sử mà ít người biết đến,
đã từng được tung lên trên gio-o.com
dưới bút hiệu "TRƯỜNG THU ĐÔNG" vào năm 2014
Mời Xem : Con Đường Thi Sỉ
31 thg 8, 2020
30 thg 8, 2020
VỀ VỚI MẸ Thơ LÊ HÀ THĂNG
Mai bỏ hết trở về chơi với Mẹ
Nghe kể ngày con lên bốn lên ba
Có con dế Mẹ bắt từ đồng Mế
Con vụng về để mất khóc lu loa.
Con đi học trường làng xa tít tắp
Bầy chim theo ríu rít dưới vòm cây
Củ khoai nướng Mẹ dành trong ngăn cặp
Giờ ra chơi cùng chúng bạn vui vầy.
Mai bỏ hết trở về vui với Mẹ
Ngồi ngoáy trầu cho Mẹ đỡ tay run
Nghe Mẹ mắng cái thằng bay thật tệ
Từng tuổi này mà chẳng có người thương.
Lưng nửa tháng con mới về một lượt
Bởi áo cơm nên vướng víu thị thành
Con vẫn biết Mẹ ngày thêm gầy guộc
Nhà rộng thênh Mẹ lần bước loanh quanh.
Tạp chí VNBD
Ghi Chú : Cụ thân sinh Bạn Lê Hà Thăng mất khi Cụ đúng 100 tuổi.
Mời xem :
Phan Tấn Hải: Mẹ và Thơ: Nhìn Từ Châu Á
Chúng ta đang trong mùa Lễ Vu Lan Báo Hiếu. Truyền thống Phật Giáo Việt Nam đón Lễ Vu Lan sẽ là ngày rằm tháng 7 âm lịch, tính theo dương lịch là ngày 2 tháng 9/2020, tức là khoảng hai tuần nữa. Lễ này xuất phát từ sự tích ngài Mục Kiền Liên, vị môn đồ Đệ nhất thần thông của Đức Phật Thích Ca, nhìn thấy mẹ của ngài thọ khổ dưới địa ngục, nên ngài đã xin Đức Phật chỉ phương pháp cứu mẹ ra khỏi kiếp quỷ đói. Tại Việt Nam, Phật tử đón Lễ Vu Lan Báo Hiếu thường là trọn tháng ăn chay, tụng kinh, làm từ thiện để hồi hướng công đức cho cha mẹ. Mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một như đường mía lau… Hình ảnh người mẹ luôn luôn là nguồn cảm hứng thi ca. Lòng mẹ nhìn từ các nhà thơ Châu Á sẽ là chủ đề của bài này.
Nhà thơ NHẬT BẢN Jūkichi Yagi (1898-1927) là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo. Năm 1925, ông xuất bản thi tập đầu tiên, nhan đề “Autumn’s Eye” (Mắt Mùa Thu). Ông gia nhập một nhóm các nhà thơ tại Tokyo, và thơ ông xuất hiện trên nhiều tạp chí văn học. Năm 1926, ông bệnh lao phổi, và nằm liệt giường cho tới khi từ trần năm 1927; lúc đó, ông mới 29 tuổi. Năm 1928, thi tập thứ nhì của ông gồm các bài thơ ông đã chọn trước khi chết, nhan đề “Poor Believers” được ấn hành. Các bài thơ chưa xuất bản khác của ông được ấn hành trong nhiều năm sau nữa, và sau cùng, toàn tập thơ ông “The Complete Poems of Jūkichi Yagi” ấn hành năm 1959. Sau đây là bài thơ nhan đề “Mắt Của Mẹ Tôi” của Jūkichi Yagi.
.
MẮT MẸ TÔI
© Jūkichi Yagi
Trong đêm
khi tôi mở mắt
tôi nghĩ về mẹ tôi nơi quê nhà xa xôi
cũng mở đôi mắt của mẹ và nói, “Ôi đứa con thương của mẹ.” (Hết)
© Jūkichi Yagi
Trong đêm
khi tôi mở mắt
tôi nghĩ về mẹ tôi nơi quê nhà xa xôi
cũng mở đôi mắt của mẹ và nói, “Ôi đứa con thương của mẹ.” (Hết)
.
Zaki Ovais là một nhà thơ sắc tộc ROHINGYA, và là một nhân viên phát triển cộng đồng trong một trại tỵ nạn nằm giữa Miến Điện và Bangladesh. Người Rohingya liên tục chạy tỵ nạn trong 200 năm qua, khi họ bị quân đội Miến Điện liên tục bố ráp, xua đuổi ra khỏi quê nhà họ ở Rakhine. Vào tháng 12/2017, sau khi bị quân đội Miến Điện tổng tấn công, đốt nhà, hiếp dâm, tra tấn… khoảng 625,000 người Rohingya chạy tỵ nạn từ Rakhine, Miến Điện, sang nước láng giềng Bangladesh. Bài thơ “I am a Rohingya” (Tôi là một người Rohingya) là bài thơ đầu tiên của chàng thanh niên Zaki Ovais, cho thấy anh sợ hãi chính phận người của anh, và tự thấy anh như gà con nép mình dưới cánh gà mẹ. Bản Anh dịch của James Byrne.
.
TÔI LÀ MỘT NGƯỜI ROHINGYA
@ Zaki Ovais
.
Tôi là một con ruồi trong bếp, vo ve
trên mép bờ của một bức vách che.
.
Tôi là một con gà dưới cánh mẹ
ẩn trong khe hẹp của bờ ức mẹ.
.
Tôi là một chim bồ câu trên đường phố Yangon
bị giam trong chiếc lồng bất nhân.
.
Tôi là dòng nước chảy trong sông Mayu
nhớ tới người bạn thân thương: Khí trời.
.
Tôi là một người trong vũ trụ
@ Zaki Ovais
.
Tôi là một con ruồi trong bếp, vo ve
trên mép bờ của một bức vách che.
.
Tôi là một con gà dưới cánh mẹ
ẩn trong khe hẹp của bờ ức mẹ.
.
Tôi là một chim bồ câu trên đường phố Yangon
bị giam trong chiếc lồng bất nhân.
.
Tôi là dòng nước chảy trong sông Mayu
nhớ tới người bạn thân thương: Khí trời.
.
Tôi là một người trong vũ trụ
Bị bác bỏ hầu hết các quyền căn bản.
.
Tôi là một người tự sợ chính mình. (Hết)
.
Tôi là một người tự sợ chính mình. (Hết)
Nhiều thế hệ người TÂY TẠNG sinh ra và trưởng thành tại Bắc Ấn Độ, trong đó có nhà thơ Kaysang. Cô lớn lên tại thành phố Dharamshala, trú xứ lưu vong của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, học văn học tại Delhi. Kaysang là đồng sáng lập Drokmo, một tổ chức nữ quyền hoạt động trong các cộng đồng người Tây Tạng và các sắc dân Hy Mã Lạp Sơn tại Ấn Độ. Thi tập đầu tiên của cô là “broken portraits” (các chân dung tan vỡ) xuất bản năm 2016. Bài thơ sau đây của Kaysang có nhan đề “untitled” (không đề) như một lời thưa với mẹ, mang âm hưởng thần thoại, nhìn mẹ như một hóa thân bồ tát, trích các đoạn cuối như sau.
UNTITLED
@Kaysang
.
…mỗi khe nứt trên da của mẹ
ủ các chuyện kể về
một trăm ngàn ngày
nuôi ăn một trăm người.
.
các anh em mẹ gọi mẹ là
thiên nữ
kiêu hùng
thần nữ bảo vệ —
họ là các con trai mẹ
và con, đứa con gái duy nhất của mẹ.
.
bàn tay mẹ chỉ biết
để yêu thương,
để làm việc,
để tận hiến,
để chăm sóc.
.
thưa mẹ, con đã
thừa hưởng
đôi tay mẹ
và trọn sức nặng của chúng. (Hết trích)
@Kaysang
.
…mỗi khe nứt trên da của mẹ
ủ các chuyện kể về
một trăm ngàn ngày
nuôi ăn một trăm người.
.
các anh em mẹ gọi mẹ là
thiên nữ
kiêu hùng
thần nữ bảo vệ —
họ là các con trai mẹ
và con, đứa con gái duy nhất của mẹ.
.
bàn tay mẹ chỉ biết
để yêu thương,
để làm việc,
để tận hiến,
để chăm sóc.
.
thưa mẹ, con đã
thừa hưởng
đôi tay mẹ
và trọn sức nặng của chúng. (Hết trích)
.
O Yŏng-jae, nhà thơ ĐẠI HÀN nổi tiếng, sinh năm 1935 tại Jangsung, tỉnh Chonnam, Nam Hàn. Khi Cuộc Chiến Triều Tiên bùng nổ vào năm 1950, ông nhập ngũ trong Quân Tình Nguyện Nhân Dân khi mới 16 tuổi, và từ đó ông sống tại Bắc Hàn. Ông là tác giả nhiều thi tập. Đối với dân Nam Hàn, ông được biết nhiều nhất với bài thơ “Mother, Please, Don’t Get Older” (Mẹ ơi, Xin Mẹ Đừng Già Thêm Nữa) ông sáng tác khi gặp lại mẹ ông năm 2000 trong sự kiện hội ngộ các gia đình ly tán giữa Nam và Bắc Hàn. Bài thơ sau đây nhan đề “Oh, My Mother” (Ôi, Mẹ của Con) do O Yŏng-jae sáng tác khi nghe tin mẹ vẫn còn sống ở Nam Hàn sau 40 năm bặt tin. Toàn văn như sau.
.
ÔI, MẸ CỦA CON
@ O Yŏng-jae
— khi nghe tin sau 40 năm rằng mẹ vẫn sống ở Miền Nam
.
Sống,
Vẫn sống,
Và gần tám mươi
Ngay cả hôm nay Mẹ vẫn còn sống.
Một mặt trời đột nhiên lên cao
Giữa đêm đen
Trận mưa rào niềm vui tràn ngập
Chảy tràn bờ, và tuôn trào từ tim con.
Một niềm vui nặng nề đè bẹp con.
Ngã xuống, con khóc,
Đứa con trai này kêu khóc.
Trên đầu gối con, cảm giác con… biến mất,
Con quỳ lạy lần nữa và lần nữa.
Những gì đã gìn giữ Mẹ
Cho tới hôm nay,
Không phải ơn phước nào từ Trời,
Cũng không phải Thời Gian thấy tội nghiệp.
Chính là niềm tin của Mẹ
Đã giữ đầu Mẹ ngẩng cao với thế giới
Bởi vì Mẹ sẽ không nhắm mắt lại
Cho tới khi Mẹ ôm đứa con trai này một lần nữa.
Hướng về niềm tin của Mẹ
Con quỳ gối xuống
Mẹ ơi, con cảm ơn Mẹ
Ôi Mẹ ơi, con cảm ơn Mẹ. (Hết)
@ O Yŏng-jae
— khi nghe tin sau 40 năm rằng mẹ vẫn sống ở Miền Nam
.
Sống,
Vẫn sống,
Và gần tám mươi
Ngay cả hôm nay Mẹ vẫn còn sống.
Một mặt trời đột nhiên lên cao
Giữa đêm đen
Trận mưa rào niềm vui tràn ngập
Chảy tràn bờ, và tuôn trào từ tim con.
Một niềm vui nặng nề đè bẹp con.
Ngã xuống, con khóc,
Đứa con trai này kêu khóc.
Trên đầu gối con, cảm giác con… biến mất,
Con quỳ lạy lần nữa và lần nữa.
Những gì đã gìn giữ Mẹ
Cho tới hôm nay,
Không phải ơn phước nào từ Trời,
Cũng không phải Thời Gian thấy tội nghiệp.
Chính là niềm tin của Mẹ
Đã giữ đầu Mẹ ngẩng cao với thế giới
Bởi vì Mẹ sẽ không nhắm mắt lại
Cho tới khi Mẹ ôm đứa con trai này một lần nữa.
Hướng về niềm tin của Mẹ
Con quỳ gối xuống
Mẹ ơi, con cảm ơn Mẹ
Ôi Mẹ ơi, con cảm ơn Mẹ. (Hết)
U Sam Oeur là nhà thơ CAM BỐT, sinh năm 1935, sống sót qua 4 năm trong các trại tập trung của chế độ Pol Pot bằng cách giả như mù chữ sau khi hủy hết tất cả các bản thảo văn học của ông để đóng vai lao động cưỡng bách ở các nông trường. Ông trưởng thành ở tỉnh Svey Rieng, lên học ở thủ đô Phnom Penh, du học Hoa Kỳ, lấy bằng Cử Nhân ở Cal State-Los Angeles và bằng Cao Học M.F.A. về Thơ tại Iowa Writers Workshop, về lại Cam Bốt năm 1968, sống bằng nghề dạy học, nhập ngũ hai năm (1970-1972), đắc cử chức Dân Biểu và được chọn làm đại biểu Cam Bốt tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 4/1975, quân Khmer Đỏ toàn thắng. Vợ chồng ông, đứa con trai và mẹ vợ bị đưa vào tuần tự 6 trại tập trung trong vòng 4 năm. Khi vợ ông trong trại tập trung sinh ra cặp song sinh, bà đỡ trong trại siết cổ chết hai bé song sinh theo lệnh cai tù vì không thể có thêm miệng ăn trong tù. Khi quân đội Việt Nam đánh bại quân Khmer Đỏ, U Sam Oeur và gia đình trở về Phnom Penh.
Ông vào làm ở Bộ Kỹ Nghệ. Năm 1991, một bài thơ ông chỉ trích quân Việt Nam đang giấu trong hộc bàn bị lộ ra, ông bị quy chụp là âm mưu hoạt động dân chủ Cam Bốt, và bị ép nghỉ việc. Một nhà thơ Hoa Kỳ, bạn học của của ông, vận động tổ chức Dashiell Hammett-Lillian Hellman Foundation Fund For Free Expression bảo lãnh ông sang Hoa Kỳ trong môt chương trình văn học quốc tế kéo dài ba tháng vào tháng 9/1992. U Sam Oeur được các bạn học Hoa Kỳ đưa vào Iowa’s International Writing Program với cương vị Independent Scholar (Học giả Độc lập) và do vậy kéo dài thời hạn chiếu khán. Trong thời gian ba tháng, ông dịch nhiều bài thơ của ông sang Anh văn, gửi tới nhiều tạp chí Mỹ. NXB Coffee House Press in tập thơ song ngữ của ông, nhan đề “Sacred Vows” năm 1998, và in tập hồi ký nhan đề “Crossing Three Wildernesses” của ông năm 2005. Bây giờ, hai vợ chồng ông đều là công dân Mỹ, đinh cư tại Texas. Sau đây là toàn văn bài thơ “Only Mothers will Embrace Sorrows” về những bà mẹ Cam Bốt bi thảm trong cuộc chiến.
.
CHỈ CÁC BÀ MẸ ÔM LẤY NỖI BUỒN
@ U Sam Oeur
.
Tôi dò bước, đi xuyên qua nỗi cô đơn
tới căn chòi nơi chúng tôi trước kia
ngồi tụ tập uống rượu đế
vui với hòa bình giả tạo.
Tôi ngồi dưới mái nhà lợp lá cọ
nhìn vào ghế của các bạn
nhưng không còn thấy ai
nghe chỉ những tiếng cười của các bạn.
.
Nơi đây, y hệt như mọi nơi khác —
bỏ hoang,
các ngôi làng của những căn nhà không mái đen thui
tôi không thấy dù là một con chó.
.
Những tiếng mìn nổ
tiếng súng đại bác gầm rú
từ tuyến đầu tới tuyến đầu, lay động tất cả
những hạt phấn của hoa champa.
.
Không nơi để trốn, không nơi nào dưới bầu trời được an nghỉ
và tiếng rên rỉ của trẻ em
và tiếng khóc của các bà mẹ
vang theo lửa đạn lóe lên khắp nơi.
.
Và thân xác các bạn, các anh em, đã che chúng tôi
chắn đạn, và máu các bạn
tung lên khắp Mẹ chúng ta, thúc đẩy hồn tôi
vĩnh viễn tôn thờ hoa sen và hoa nhài. (Hết)
@ U Sam Oeur
.
Tôi dò bước, đi xuyên qua nỗi cô đơn
tới căn chòi nơi chúng tôi trước kia
ngồi tụ tập uống rượu đế
vui với hòa bình giả tạo.
Tôi ngồi dưới mái nhà lợp lá cọ
nhìn vào ghế của các bạn
nhưng không còn thấy ai
nghe chỉ những tiếng cười của các bạn.
.
Nơi đây, y hệt như mọi nơi khác —
bỏ hoang,
các ngôi làng của những căn nhà không mái đen thui
tôi không thấy dù là một con chó.
.
Những tiếng mìn nổ
tiếng súng đại bác gầm rú
từ tuyến đầu tới tuyến đầu, lay động tất cả
những hạt phấn của hoa champa.
.
Không nơi để trốn, không nơi nào dưới bầu trời được an nghỉ
và tiếng rên rỉ của trẻ em
và tiếng khóc của các bà mẹ
vang theo lửa đạn lóe lên khắp nơi.
.
Và thân xác các bạn, các anh em, đã che chúng tôi
chắn đạn, và máu các bạn
tung lên khắp Mẹ chúng ta, thúc đẩy hồn tôi
vĩnh viễn tôn thờ hoa sen và hoa nhài. (Hết)
Li-Young Lee là nhà thơ INDONESIA gốc HOA, sinh năm 1957 tại Jakarta, Indonesia, ba mẹ là người Hoa. Thân phụ của Lee là bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông khi còn ở TQ, đã đưa cả gia đình sang được Indonesia. Năm 1959, gia đình Lee lại bỏ trốn khỏi Indonesia khi phong trào bài Hoa tăng vọt đẫm máu, và sau chuyến đi dài 5 năm qua Hồng Kông và Nhật Bản, vào Mỹ định cư năm 1964. Nhờ đó, Li-Young Lee trưởng thành trong nền học vấn Hoa Kỳ. Thi tập “The City in Which I Love You” (Thành Phố Nơi Đó Tôi Yêu Em) của Lee được giải thưởng Lamont Poetry Selection năm 1990 của Academy of American Poets. Bài thơ nhan đề “I Ask My Mother to Sing” (Tôi Mời Mẹ Tôi Hát) của ông với hình ảnh tiếng hát lẫn vào tiếng mưa, như sau.
.
TÔI MỜI MẸ TÔI HÁT
@ Li-Young Lee
.
Mẹ khởi đầu, và bà ngoại cùng cất tiếng theo
Mẹ và con gái hát y hệt như các cô gái nhỏ
Nếu cha tôi còn sống, ông sẽ chơi
đàn phong cầm và lắc lư như một chiếc thuyền.
.
Tôi chưa từng ở Bắc Kinh, cũng như tại Cung Điện Mùa Hè
cũng không từng đứng trên Thuyền Đá vĩ đại để xem
mưa bắt đầu rơi trên Hồ Kuen Ming Lake, những người tới chơi
đang chạy biến đi trong cỏ.
.
Nhưng tôi yêu thích được nghe hát
nhìn các cây bông súng tràn ngập nước mưa cho tới khi
chúng lật nghiêng, tràn nước vào nước hồ
rồi đứng thẳng lại, và ngập nước mưa trở lại.
.
Cả hai người đàn bà bắt đầu khóc
Nhưng không ai ngưng tiếng hát. (Hết)
@ Li-Young Lee
.
Mẹ khởi đầu, và bà ngoại cùng cất tiếng theo
Mẹ và con gái hát y hệt như các cô gái nhỏ
Nếu cha tôi còn sống, ông sẽ chơi
đàn phong cầm và lắc lư như một chiếc thuyền.
.
Tôi chưa từng ở Bắc Kinh, cũng như tại Cung Điện Mùa Hè
cũng không từng đứng trên Thuyền Đá vĩ đại để xem
mưa bắt đầu rơi trên Hồ Kuen Ming Lake, những người tới chơi
đang chạy biến đi trong cỏ.
.
Nhưng tôi yêu thích được nghe hát
nhìn các cây bông súng tràn ngập nước mưa cho tới khi
chúng lật nghiêng, tràn nước vào nước hồ
rồi đứng thẳng lại, và ngập nước mưa trở lại.
.
Cả hai người đàn bà bắt đầu khóc
Nhưng không ai ngưng tiếng hát. (Hết)
.
Ko Soe Naing, nhà thơ MIẾN ĐIỆN và là một nhà hoạt động dân chủ. Anh là một sinh viên của Học Viện Kỹ Thuật Ragoon (Rangoon Institution of Technology) tham gia cùng các bạn chống lại nhà nước quân phiệt. Anh bị cảnh sát bắn bị thương, trầm trọng tới mức hết cứu nổi, trong tháng 3/1988. Trước khi chết, anh làm bài thơ “Real Answer” (Câu Trả Lời Thực), trong đó có lời gửi tới ba mẹ. Toàn văn bài thơ như sau.
.
CÂU TRẢ LỜI THỰC
@ Ko Soe Naing
@ Ko Soe Naing
Bạn tôi ơi
Tôi không muốn thì thầm
cơn đau tôi chịu đựng
nhưng muốn kể mọi thứ.
.
Đó là cảm giác xúc động
Viên đạn trong phổi tôi
như các bác sĩ đã nói.
.
Nhưng bạn ơi
nhà độc tải đã ra lệnh để môi tôi phải nói
đó là vết thương
gây ra từ một mũi tre nhọn
.
Sau chai máu thứ tư
bơm vào
nhưng không gì đỡ hơn
.
Tệ hại nhất tôi cảm thấy buồn là
những chiếc còng ở cả bàn tay và cổ chân.
Không để tấm thân xanh xao của tôi
cử động gì.
.
Ba má tôi thở dài và khóc
những đôi mắt đen sầm và tai đã lãng
Tôi nhận ra và cảm nhận hoàn cảnh mình
lần cuối trong đời mình
lựa lọc những chữ căng thẳng
và để trả lời câu hỏi
của “Ủy Ban Thanh Tra Bí Mật”
về sự thật mà họ không ưa thích.
.
Cái Nằm Trong Phổi Tôi
Là Một Viên Đạn Thực. (Hết)
Tôi không muốn thì thầm
cơn đau tôi chịu đựng
nhưng muốn kể mọi thứ.
.
Đó là cảm giác xúc động
Viên đạn trong phổi tôi
như các bác sĩ đã nói.
.
Nhưng bạn ơi
nhà độc tải đã ra lệnh để môi tôi phải nói
đó là vết thương
gây ra từ một mũi tre nhọn
.
Sau chai máu thứ tư
bơm vào
nhưng không gì đỡ hơn
.
Tệ hại nhất tôi cảm thấy buồn là
những chiếc còng ở cả bàn tay và cổ chân.
Không để tấm thân xanh xao của tôi
cử động gì.
.
Ba má tôi thở dài và khóc
những đôi mắt đen sầm và tai đã lãng
Tôi nhận ra và cảm nhận hoàn cảnh mình
lần cuối trong đời mình
lựa lọc những chữ căng thẳng
và để trả lời câu hỏi
của “Ủy Ban Thanh Tra Bí Mật”
về sự thật mà họ không ưa thích.
.
Cái Nằm Trong Phổi Tôi
Là Một Viên Đạn Thực. (Hết)
Nhà thơ Nhã Ca nổi tiếng từ thời còn ở VIỆT NAM. Bà sinh năm 1939 tại Huế, vào Sài Gòn năm 1960, sáng tác với nhiều thể loại văn học như thơ, tiểu thuyết, bút ký, hồi ký. Năm 1964, thi tập Nhã Ca Mới của bà ấn hành, và được trao Giải Thi ca toàn quốc năm 1965. Trong khoảng thời gian 1960 – 1975, bà xuất bản 36 tác phẩm nhiều thể loại. Trong đó, tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế viết về biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế được trao Giải thưởng Văn học toàn quốc năm 1970. Cũng vì tác phẩm này, sau ngày 30/4/1975, bà là phụ nữ duy nhất có tên trong danh sách 10 “biệt kích văn hóa” ở miền Nam Việt Nam, cùng với các nhà văn khác, và bị nhà nước CSVN bắt giam trong 2 năm. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, bị giam hơn 12 năm. Năm 1989, do can thiệp của Văn Bút Quốc tế, Ân xá Quốc tế và Thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà và gia đình sang Thuỵ Điển tị nạn. Năm 1992, bà và gia đình sang California định cư, cùng chồng sáng lập Việt Báo Kinh Tế và rồi đổi tên là Nhật Báo Việt Báo. Sau đây là bài Thơ Sớm Mai của nhà thơ Nhã Ca, ghi lời người mẹ viết cho ngày đầy tuổi của con.
.
THƠ SỚM MAI
@Nhã Ca
.
Buồn buổi sớm đầy trong ngăn kín
Vườn ăn năn cây cối vừa xanh
Sáng chủ nhật mặt trời đỏ chín
Đầy tuổi con rồi đó nghe anh
.
Nghe đó anh, con đầy tiếng nói
Sự thật kìa, con nói đi con
Nói đi con, nói dùm mẹ với
Buồn bã nào cớm nổi lộc non
.
Con nói đi kìa mặt trời mọc
Mặt trời đang mọc mặt trời hồng
Mặt trời đang mọc ba đừng khóc
Mưa gió nào chôn nổi rạng đông
.
Con nói đi, kìa sáng chủ nhật
Chủ nhật sao đầy ắp cửa nhà
Nụ cười trong máu hơi trong đất
Tiếng nói con đầy lịch sử ta
.
Sáng chủ nhật đầy ắp mọi người
Con nói đi mặt trời đang mọc
Mặt trời mọc, mọc rồi, mọc rồi
Mặt trời mọc mà sao mẹ khóc. (Hết)
@Nhã Ca
.
Buồn buổi sớm đầy trong ngăn kín
Vườn ăn năn cây cối vừa xanh
Sáng chủ nhật mặt trời đỏ chín
Đầy tuổi con rồi đó nghe anh
.
Nghe đó anh, con đầy tiếng nói
Sự thật kìa, con nói đi con
Nói đi con, nói dùm mẹ với
Buồn bã nào cớm nổi lộc non
.
Con nói đi kìa mặt trời mọc
Mặt trời đang mọc mặt trời hồng
Mặt trời đang mọc ba đừng khóc
Mưa gió nào chôn nổi rạng đông
.
Con nói đi, kìa sáng chủ nhật
Chủ nhật sao đầy ắp cửa nhà
Nụ cười trong máu hơi trong đất
Tiếng nói con đầy lịch sử ta
.
Sáng chủ nhật đầy ắp mọi người
Con nói đi mặt trời đang mọc
Mặt trời mọc, mọc rồi, mọc rồi
Mặt trời mọc mà sao mẹ khóc. (Hết)
🌺
Một nhà thơ ẤN ĐỘ xưa cổ… Ubbiri là một vị Hoàng Hậu, trước khi trở thành một vị Thánh Ni. Nỗi đau đớn khóc con đã dẫn bà tới cơ duyên gặp Đức Phật và rồi học đạo. Trong hàng môn đệ của Đức Phật có hàng trăm vị Thánh Tăng, Thánh Ni để lại các bài thơ bất tử. Trường hợp bà Ubbiri đã có duyên lành từ nhiều kiếp xưa. Trải qua nhiều kiếp quá khứ, bà Ubbiri đã có nhiều công đức trong thời của nhiều vị Cổ Phật. Trong một kiếp ở thời Cổ Phật Padumuttara Buddha, bà sinh tại thị trấn Haŋsavatī. Một hôm, khi ở nhà một mình vì ba mẹ dự tiệc ngoài phố, bà nhìn thấy một vị A La Hán tới gần, bà mới bước ra cung thỉnh vị sư tới trước nhà, mời ngài ngồi, lấy bình bát của ngài và chất đầy thức ăn dâng cúng. Vị trưởng lão thọ nhận, cảm ơn và bước đi. Nhờ công đức như thế, bà sinh lên cõi trời. Tới thời Đức Phật Thích Ca, bà sinh trong một gia tộc quyền quý ở thành Savatthi.
Vì bà xinh đẹp, Vua Kosala đưa bà vào nội cung. Vài năm sau, bà sinh hạ môt bé gái tên là Jiva. Vua hài lòng, tấn phong bà Ubbiri làm Hoàng Hậu. Một thời gian ngắn sau, bé gái từ trần, và bà tới khóc con hàng ngày ở nghĩa trang. Một hôm, bà tới bày tỏ lòng tôn kính Đức Phật, ngồi xuống giây lát, và rồi bước ra, đứng than khóc bên bờ Sông Achiravatī. Đức Phật hiện thần thông, tới trước mặt bà và hỏi rằng tại sao lại khóc. Hoàng hậu bạch Thế Tôn rằng bà khóc vì con gái từ trần. Đức Phật nói: “Thiêu xác trong nghĩa trang này có 84,000 đứa con gái của con, con muốn khóc đứa nào?” Oai lực từ lời dạy của Đức Phật Thích Ca và công đức nhiều kiếp quá khứ tức khắc giúp bà Ubbiri nhìn thấy cái mênh mông vô tận của cõi luân hồi, và nhận ra bà đã nhiều kiếp ẵm xác con ra thiêu nơi nghĩa trang này.
Đức Phật đọc bài kệ:
Người khóc trong rừng: “Jiva, con gái ta ơi.”
Ubbiri, tỉnh thức đi: 84,000 đứa con trước giờ đều có tên Jiva
đã thiêu xác nơi nghĩa trang này.
Ngươi thương khóc đứa con nào?
Ubbiri, tỉnh thức đi: 84,000 đứa con trước giờ đều có tên Jiva
đã thiêu xác nơi nghĩa trang này.
Ngươi thương khóc đứa con nào?
Hoàng Hậu Ubbiri tức khắc đắc quả A La Hán. Đây là một trong vài trường hợp hy hữu, đắc quả cao nhất trong khi chưa xuất gia. Bà Ubbiri đọc bài thơ tạ ơn Đức Phật:
Xong rồi, đã hoàn toàn
bứt ra mũi tên rất mực khó thấy
từ trái tim con
Con đang tràn ngập nỗi đau đớn vì thương đứa con gái
Và Đức Thế Tôn đã lấy ra nỗi đau cho con.
Hôm nay — với mũi tên bứt ra
không còn tham luyến gì, toàn bộ
là Niết Bàn —
Đối trước Phật, Pháp, Tăng
con xin quy y Tam Bảo.
bứt ra mũi tên rất mực khó thấy
từ trái tim con
Con đang tràn ngập nỗi đau đớn vì thương đứa con gái
Và Đức Thế Tôn đã lấy ra nỗi đau cho con.
Hôm nay — với mũi tên bứt ra
không còn tham luyến gì, toàn bộ
là Niết Bàn —
Đối trước Phật, Pháp, Tăng
con xin quy y Tam Bảo.
.
Và sau cùng, kính chúc tất cả độc giả một Đại Lễ Vu Lan trang nghiêm và hạnh phúc, sức khỏe an lành, thoát hiểm nạn, vượt qua mùa đại dịch.
Nguyên Giác Phan Tấn Hải (T.Vấn Và Bạn Hửu )
Góc Việt Thi : Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM (kỳ tam)
11. Bài thơ TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ :
送老妾還村居 TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ
無限東風暖襲人, Vô hạn đông phong noãn tập nhân,
醉中扶起老來身。 Túy trung phù khởi lão lai thân.
慇懃報道無他語, Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
江館煙村共一春。 Giang quán yên thôn cộng nhất xuân.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ 送老妾還村居 là Đưa người thiếp già trở về nơi ở cũ trong thôn xóm.
- Vô Hạn 無限 : là Rất nhiều, là Đầy rẫy cả.
- Đông Phong 東風 là Gió từ hướng đông thổi đến, tức là Gió xuân đó.
- Tập 襲 : là Đánh lén, đánh úp (như Tập Công); ở đây có nghĩa là Thâm nhiễm, là bao phủ quanh, nên NOÃN TẬP NHÂN 暖襲人 là Cái ấm áp ập đến quanh người.
- Phù 扶: là Nâng đỡ, nên PHù KHỞI 扶起 là Đỡ dậy.
- Báo Đạo 報道 : là Báo đáp lại cái đạo lý giữa tướng công và tì thiếp.
- Giang Quán 江館 : QUÁN ở đây là TRÚ QUÁN 住館 là Nhà ở, nên GIANG QUÁN có nghĩa là Căn nhà nhỏ ở ven sông.
- Yên Thôn 煙村 : là Xóm khói, là Xóm trong sương khói, chỉ Xóm thôn vắng vẻ.
* Nghĩa Bài Thơ :
ĐƯA NGƯỜI THIẾP GIÀ VỀ THÔN
Làn gió xuân tràn ngập làm cho hơi ấm cũng ập đến quanh người. Trong cơn say, ta đỡ dậy tấm thân già nua của người tì thiếp. Rất ân vần để báo đáp cho trọn cái đạo làm người, chớ không nói năng gì khác nữa. Căn nhà nhỏ ven sông trong xóm thôn vắng lặng như cùng tràn ngập trong mùa xuân.
Đối với những người hầu thiếp ngày xưa khi về già, thường được chủ nhân (cũng là người đầu ấp tay gối trong biết bao năm, lắm khi tình nghĩa còn hơn là người hôn phối chính thức được cưới khi đã hiển đạt) ban cho chút đỉnh tiền bạc, khá lắm thì thêm được một người hầu để về quê dưỡng già đợi ngày theo ông theo bà về nơi chín suối. Cụ nguyễn Bỉnh Khiêm đã rất tình nghĩa và đúng đạo làm người, đích thân đưa người thiếp già về quê để an hưởng tuổi già cho phải đạo.
* Diễn Nôm :
TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ
Gió xuân ấm áp thổi quanh người,
Say đỡ thân già đến tận nơi.
Trọn đạo ân cần không cắng đắng,
Nhà bên sông vắng đón xuân tươi !
Lục bát :
Quanh người thổi ấm gió xuân,
Trong say đỡ dậy ân cần dìu nhau.
Ít lời trọn đạo trước sau,
Nhà ven sông vắng rạt rào gió xuân !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
12. Hai bài thơ TỰ THUẬT :
自述 (其一) TỰ THUẬT (kỳ nhất)
年方七十已休官, Niên phương thất thập dĩ hưu quan,
重憶幽居覓故山。 Trùng ức u cư mịch cố san.
津館日高眠未起, Tân quán nhựt cao miên vị khởi,
青雲爭似白雲閑。 Thanh vân tranh tự bạch vân nhàn.
自述 (其二) TỰ THUẬT (kỳ nhị)
得優遊可便優遊, Đắc ưu du khả tiện ưu du,
心逸神閒日日休。 Tâm dật thần nhàn nhựt nhựt hưu.
最愛五湖湖上客, Tối ái ngũ hồ hồ thượng khách,
清風明月一扁舟。 Thanh phong minh nguyệt nhất biên chu.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Niên Phương 年方 : Năm khoảng; ở đây chỉ Tuổi khoảng...
- Trùng Ức 重憶 : là Nhớ lại.
- Tân Quán 津館 : là Quán ven bờ, có nghĩa : Gian nhà nhỏ bên bến sông.
- Tranh Tự 爭似 : Giành nhau để được giống như là...
- Ưu Du 優遊 : là Ưu tiên du ngoạn, là Du ngoạn một cách thoải mái.
- Tâm Dật Thần Nhàn 心逸神閒 : DẬT 逸 là Buông thả, thoải mái. nên TÂM DẬT THẦN NHÀN là Tâm thần buông thả thoải mái nhàn nhã.
- Nhất Biên Chu 一扁舟 : là Một chiếc thuyền mỏng, chỉ Một chiếc thuyền con.
* Nghĩa Bài Thơ :
TỰ THUẬT
(bài 1)
Tuổi khoảng 70 đã từ quan để về hưu, còn nhớ lại chỗ ở thanh u vắng vẻ ngày trước nên tìm về núi cũ. Bên bến sông trong quán nhỏ, mặt trời đã lên cao vẫn còn ngủ chưa dậy. Mây xanh như tranh đua sự nhàn nhã với mây trắng trên bầu trời.
(bài 2)
Được vui chơi thảnh thơi thì hãy cứ vui chơi thảnh thơi. Trong lòng thoải mái thần trí nhàn nhã thì ngày ngày cứ nghỉ ngơi. Yêu nhất là cảnh của Ngũ Hồ và khách du trên Ngũ Hồ, cứ thả một lá thuyền con mà thưởng ngoạn trăng thanh gió mát !
Câu đầu của bài 2 "Đắc ưu du khả tiện ưu du 得優遊可便優遊,làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong Tăng Quảng Hiền Văn là :
遇飲酒時須飲酒, Ngộ ẩm tửu thời tu ẩm tửu,
得高歌處且高歌。 Đắc cao ca xứ thả cao ca !
Có nghĩa :
Gặp lúc uống rượu thì cứ vui chơi mà uống rượu;
Lúc cất cao giọng hát thì cứ hát cho thả giàn !
Còn hai câu sau nối tiếp theo ý của hai câu trên nữa là :
今朝有酒今朝醉, Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明日愁來明日憂. Minh nhựt sầu lai minh nhựt ưu !
Có nghĩa :
Hôm nay có rượu thì hôm nay hãy uống cho say;
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy lo toan !
Đã về hưu hưởng nhàn rồi thì phải sống cho thoải mái, xả láng, không lo nghĩ gì nữa cả !
* Diễn Nôm :
TỰ THUẬT
(bài 1)
Tuổi vừa bảy chục đã về hưu,
Núi cũ tìm về với cựu cư.
Tân quán nắng cao người vẫn ngủ,
Mây xanh mây trắng mãi du du !
Lục bát :
Tuổi vừa bảy chục từ quan,
Nhớ nơi ở cũ cố san tìm về.
Nắng cao nhà vắng ngủ mê,
Mây xanh mây trắng tranh về nhàn du.
(bài 2)
Được lúc thảnh thơi cứ thảnh thơi,
Tâm tình thoải mái ngày ngày vui.
Ngũ Hồ yêu nhất người du ngoạn,
Gió mát trăng thanh thuyền nhỏ bơi.
Lục bát :
Thảnh thơi thì cứ thảnh thơi,
Trong lòng nhàn nhã niềm vui ngày ngày.
Ngũ Hồ du khách nhất đời,
Trăng thanh gió mát thuyền chơi khắp miền.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
13. Bài thơ XUÂN ĐÁN CẢM TÁC :
春旦感作 XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
行年七十四年餘, Hành niên thất thập tứ niên dư,
喜得投閒訪舊居。 Hỉ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
歲始旁觀新宇宙, Tuế thủy bàng quan tân vũ trụ,
家貧唯富舊詩書。 Gia bần duy phú cựu thi thư.
秀花野竹三春好, Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
淨月明窗一室虛。 Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư.
誰是誰非休說著, Thùy thị thùy phi hưu thuyết trước
老狂自笑太庸疏。 Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ !
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Đầu Nhàn 投閒 : Vấn thân vào việc hưởng nhàn, như ĐẦU QUÂN 投軍 là Gia nhập vào quân đội vậy.
- Phỏng 訪 : là Thăm viếng. PHỎNG CỰU CƯ 訪舊居 là Thăm lại chỗ ở cũ.
- Tuế Thủy 歲始 : Tuổi bắt đầu, có nghĩa là Đầu năm.
- Tú Hoa Dã Trúc 秀花野竹 : Hoa đẹp trúc hoang (chỉ tre mọc phóng túng).
- Tịnh nguyệt Minh Song 淨月明窗 : Trăng thì trong, cửa song thì sáng.
- Lão Cuồng 老狂 : Không phải là Ông già điên, mà là Ông già ngông nghênh.
- Dung Sơ 庸疏 : DUNG là Dung tục là tầm thường; SƠ là Hời hợt không ý tứ. Nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường.
* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM TÁC NGÀY ĐẦU XUÂN
Tuổi đời đã bảy mươi tư tuổi có thừa rồi, vui vì được về thăm lại chỗ ở cũ khi đã hưởng nhàn. Đầu năm cứ đứng một bên mà xem vũ trụ đổi mới; nhà nghèo chỉ giàu ở số sách thi thơ đã cũ mèm. Ba tháng mùa xuân thì vui với hoa đẹp và những khóm tre dại; Một căn phòng trống với trăng trong cửa sáng. Mặc ai phải ai trái xin đừng nói đến nữa, ta chỉ tự cười mình là lão già ngông nghênh tầm thường hời hợt và vô tích sự mà thôi !
* Diễn Nôm :
XUÂN ĐÁN CẢM TÁC
Tuổi đà bảy chục lại thêm tư,
Mừng được nhàn thăm chốn cựu cư.
Năm mới vui còn xem vũ trụ,
Nhà nghèo giàu chỉ có thi thư.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân thắm,
Song sáng trăng thanh một thảo lư.
Phải trái ai người đừng nói đến,
Già ngông hời hợt tự cười trừ !
Lục bát :
Tuổi già đã bảy mươi tư,
Vui nhàn thăm chốn cựu cư năm nào.
Đầu năm vũ trụ đổi màu,
Nhà nghèo sách cũ làm giàu quanh năm.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân,
Trăng thanh cửa sáng một phòng trống không.
Thị phi ai đó khôn phân,
Tự cười hời hợt già ngông vụng về.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
14. Bài thơ THU THANH :
秋聲 THU THANH
蕭條秋夜滴寒更, Tiêu điều thu dạ trích hàn canh,
玉律回音暗土聲。 Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh.
但覺樹間鳴晰晰, Đản giác thọ gian minh tích tích,
忽驚月下響錚錚。 Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
初聞戍婦愁無寐, Sơ văn thú phụ sầu vô mỵ,
自觸寒螿惹不平。 Tự xúc hàn tương nhạ bất bình.
擬作穎川歐子賦, Nghỉ tác Dĩnh Xuyên Âu tử phú,
恐惶模仿被時輕。 Khủng hoàng mô phỏng bị thời khinh.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Tiêu Điều 蕭條 : là Xơ xác vắng lặng.
- Ngọc Luật Hồi Âm Ám Thổ Thanh 玉律回音暗土聲 : NGỌC là cái ống bằng ngọc, người xưa đốt tro của màng cây sậy bỏ vào bên trong, đến các khí tiết như Đông chí, Lập xuân v.v... thì chất tro trong ống luật được khí trời thổi bay lên, người ta dựa vào đó để đoán xem thời tiết; ÁM THỔ THANH là ngầm có tiếng thổ là đất, theo Thái Cực Đồ thì ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) ứng với tứ thời, kim ứng với mùa thu, mộc ứng với mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả ứng với mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà trong ống ngọc luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là báo trước sắp tới mùa đông rét mướt.
- Tích Tích, Tranh Tranh 晰晰,錚錚 : Từ Tượng thanh, chỉ tiếng côn trùng kêu trong đêm thu.
- Thú Phụ 戍婦 : là Vợ của những người lính thú lưu đồn ở xa.
- Hàn Tương 寒螿 : Một loại ve sầu nhỏ, chỉ kêu khi mùa thu lạnh lẽo.
- Nghỉ Tác 擬作 : Định nhái theo để làm... cái gì đó.
- Dĩnh Xuyên Âu Tử Phú 穎川歐子賦 : ÂU TỬ tức là Âu Dương Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung Quốc, là Tễ Tướng và là một danh sĩ có làm bài "Thu Thanh Phú 秋聲賦" (Phú Tiếng thu) rất nổi tiếng.
* Nghĩa Bài Thơ :
TIẾNG THU
Trong đêm thu tiêu điều vắng lặng chỉ nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt điểm canh lạnh lẽo; Trong ống ngọc luật lại ngầm vang tiếng thổ báo hiệu mùa đông rét mướt sắp tới. Lại nghe thấy trong khóm cây có tiếng kêu ri rỉ, và chợt giật mình khi nghe tiếng ra rả dưới trăng. Thoáng nghe tiếng người vợ của các anh lính thú buồn vì không ngủ được, lại xúc động tâm tình như những con ve sầu đang kêu vang như than cho nổi bất bình. (Trước cảnh tình nầy), ta định làm bài phú về tiếng thu như Âu Dương Tu của đất Dĩnh Xuyên, nhưng lại e rằng người đời bảo là ta bắt chước mà khinh rẻ ta chăng !?
* Diễn Nôm :
THU THANH
Đồng hồ nhỏ giọt đêm thu lạnh,
Ngọc luật âm vang tiếng thổ thanh.
Chợt thấy trong cây vang chích chắc,
Giật mình dưới nguyệt tiếng lanh canh.
Não nề thú phụ buồn khôn ngủ,
Xúc động ve sầu rỉ suốt canh.
Muốn học Dĩnh Xuyên làm phú vịnh,
Còn e bắt chước bị người khinh.
Lục bát :
Tiêu điều nhỏ giọt đêm thu,
Âm vang ngọc luật nghe như thổ hành.
Trong cây vẳng tiếng lanh canh,
Dưới trăng ra rả giật mình tiếng ve.
Trở trăn cô phụ buồn nghe,
Dế mèn ri rỉ như chia bất bình.
Muốn làm bài phú Thu Thanh,
Chỉnh e mô phỏng buồn tình lại thôi !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
15. Bài thơ TRỪ TỊCH TỨC SỰ :
除夕即事 TRỪ TỊCH TỨC SỰ
新歲才臨舊歲除, Tân tuế tài lâm cựu tuế trừ,
老來笑我太庸疏。 Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
乾坤不盡煙花景, Càn khôn bất tận yên hoa cảnh,
門館無私水竹居。 Môn quán vô tư thủy trúc cư.
兩度手層扶日轂, Lưỡng độ thủ tằng phù nhựt cốc,
一封書肯上公車。 Nhất phong thư khẳng thượng công xư(xa).
年年管得春光好, Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
知是天心獨厚余。 Tri thị thiên tâm độc hậu dư.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- Tài Lâm 才臨 : là Mới vừa đến.
- Dung Sơ 庸疏 :DUNG là Dung tục là tầm thường, SƠ là Thưa thớt, hời hợt. Nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường, vô tích sự, không làm được gì cả.
- Càn Khôn 乾坤 : là hai quẻ tượng trưng cho Trời và Đất trong Bát quái.
- Yên Hoa Cảnh 煙花景 : Cảnh hoa nở rộ đẹp đẽ của mùa xuân.
- Thủy Trúc Cư 水竹居 : Nhà ở trên bến nước có tre trúc hữu tình.
- Nhựt Cốc 日轂 : là Mặt trời, ở đây chỉ nhà vua, nên PHÙ NHỰT CỐC 扶日轂 là Phò trợ nhà vua.
- Công Xa 公車 : là Xe công, chỉ Xe của vua đi.
- Quản Đắc 管得 : là Quản lý được, có nghĩa là Nắm bắt được, là Hưởng được.
- Độc Hậu Dư 獨厚余 : ĐỘC là Riêng lẻ, HẬU là Hậu đãi, DƯ là Ta; nên ĐỘC HẬU DƯ là Hậu đãi riêng với mình ta.
* Nghĩa bài Thơ :
Tức Sự đêm Giao Thừa
Năm mới vừa đến thì năm cũ cũng đi qua; cười ta già đầu rồi mà còn hời hợt tầm thường vô tích sự. Cảnh hoa đẹp của mùa xuân trong đất trời thì vô cùng tận, và nơi ở nhàn nhã trước cửa có sông nước trúc tre cũng không chỉ dành riêng cho ai; Cũng đã hai lần từng phò vua giúp nước, nhưng một phong thư (kể công) cũng không chịu trình lên xe vua. (Chỉ cần) mỗi năm ta đều hưởng được những mùa xuân đẹp đẽ, thì biết là lòng trời còn hậu đãi ưu ái đến ta lắm rồi !
Qủa là lòng của một lão thần trung nghĩa, không hám vinh hoa phú qúy; không màng danh lợi buộc ràng, chỉ muốn yên thân nhàn tản thưởng ngoạn sự đẹp đẽ ưu ái của đất trời, của tiết xuân với hoa thơm cỏ đẹp khi mỗi độ xuân về.
* Diễn Nôm :
TRỪ TỊCH TỨC SỰ
Năm mới đến đi lại một năm,
Cười ta già ngố lại vô tâm.
Đất trời cảnh trí hoa xuân thắm,
Nhà cửa ven sông tre trúc râm.
Hai lượt phò vua luôn dốc sức,
Một phong thư tấu mãi trầm ngâm.
Năm năm cứ được vui xuân đến,
Là phúc riêng trời kẻ hảo tâm.
Lục bát :
Năm mới đến, năm cũ đi,
Cười ta ngớ ngẩn khác gì năm qua.
Đất trời xuân thắm bao la,
Bên sông tre trúc cửa nhà riêng ai.
Hai lần phò chúa ra tay,
Một phong thư lại ngại hoài chẳng dâng.
Năm năm vui hưởng sắc xuân,
Biết trời hậu đãi lão thần riêng ta.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
🌸🌸🌸🌸
Lạ lùng cách nữ họa sỹ Hà Nội biến vải vụn thành tác phẩm nghìn đô
Cách đây 40 năm, cô Trần Thanh Thục lần đầu tiên làm ra bức tranh bằng vải vụn độc đáo. Cô kể: "Khi tôi làm ra bức tranh vải vụn, tôi mới là sinh viên năm cuối của trường Mỹ thuật. Ý tưởng đến từ sự tình cờ khi tôi đến chơi nhà một người bạn làm thợ may".
Cô tâm sự, ngay sau khi nhìn thấy những tấm vải thừa nằm trên sàn, cô mới lóe ra ý tưởng ghép chúng lại với nhau. Thời điểm ấy, đó là một suy nghĩ táo bạo với cô, bởi từ trước tới nay, cô chưa bao giờ thấy bức tranh nào được tạo ra từ vải,đặc biệt là vải vụn.
Cô Thục thực hiện các công đoạn làm tranh bằng vải Không nản chí, cô Thục hàng ngày săn tìm những miếng vài thừa từ các tiệm may, cửa hàng. Sau bao ngày kỳ công, bức tranh về phố cổ Nam Định được ghép bằng vải vụn ra đời trước sự trầm trồ, kinh ngạc của bạn bè đồng trang lứa."Khi ấy, tôi còn trẻ nên làm ra được cái gì là thích lắm, toàn đem về nhà khoe với bố. Bố tôi nhìn qua cũng tạm gật đầu, tôi mới nghĩ, chắc mình cũng thành công được 30 - 40% rồi" - cô nhớ lại.
Theo tiết lộ, bố cô Thục vốn là họa sỹ và cũng là người đầu tiên góp ý cho cô về con đường làm tranh vải. Cứ thế suốt những năm tháng đại học, cô Thục mải miết khắp các quán hàng, tiệm may xin vải thừa về chế tác.
Nhưng sau khi ra trường, mọi giấc mơ, hoài bão về tranh vải của cô đều bị gác lại trước những lắng lo về cuộc sống, cơm áo gạo tiền. Cô cho biết, cô không đủ tài chính để nuôi "đứa con tinh thần" nên buộc phải chia ly"Cuộc sống có nhiều thứ mà không phải mình cứ muốn là được, đau xót lắm nhưng biết làm thế nào. Nhưng đã gọi là duyên nợ thì sẽ mãi vấn vương, không đến ở thời điểm này thì đến ở thời điểm khác" - cô nói.
Vào năm 2000, khi mọi thứ với cô Thục dần ổn định, con gái cô đã lớn, kinh tế nhà đã dư dả đôi phần, cô quyết định quay về trường Mỹ thuật để học thêm. Và từ đây, mọi mối lương duyên bắt đầu trở lạiNhững bức tranh bằng vải của cô Thục có giá lên tới hàng nghìn USD
"Tôi bắt đầu hối hả và trở lại một cách vội vã như để đền đáp những điều dang dở của tuổi trẻ. Tất cả những ý tưởng bao năm dài canh cánh trong lòng giờ như được bung lụa, tuôn trào. Với tôi đó là lời hồi đáp muộn màng nhưng tròn đầy hạnh phúc" - cô Thục xúc động nói.
Biến đam mê thành hiện thực
Nối lại đam mê, cô Thục ngày đêm nghiên cứu và cho ra đời nhiều tác phẩm độc đáo. Nhưng phải mất tới 10 năm, kể từ ngày trở lại, cô mới thành công trên con đường chinh phục vải vụn. Nhiều tác phẩm của cô được đông đảo bạn bè, du khách gần xa biết tới và được định giá mỗi chiếc lên tới cả nghìn đô.
Giờ đây, không chỉ là vải vụn mà nhiều nguyên liệu khác như lụa, khăn cũng được cô sử dụng. Chỉ có một điểm duy nhất mãi không đổi là trên bức tranh không có một nét vẽ nào, chỉ có vải và vải. Và tất cả đều được dính vào nhau bằng một thứ keo không màu.
Quy trình làm tranh vải bắt đầu từ khâu chọn ý tưởng, chọn vải, cắt vải và lắp ráp thành tác phẩm. Trong đó, khâu khó nhất là làm sao tìm được những miếng vải có màu sắc tương đồng như cảnh vật mà họa sỹ định thể hiện. Như hình của lá, hoa, cây, cỏ đều phải trùng khớp màu với nhau.Keo dùng để dán vải
"Nếu là vẽ, người ta có thể pha màu nhưng tôi dùng vải để ghép thì phải lựa làm sao ra sắc đó. Đôi khi là mất tới vài tháng hay cả năm đi săn lùng" - cô
"Nhà tôi có một nguyên tắc là phòng làm việc của tôi không ai được phép dọn dẹp, bỏ đi bất cứ miếng vải nào dù là nhỏ nhất. Chỉ có tôi mới được quyền sắp xếp, đặt để lại chúng" - cô chia sẻ.Bởi thế mà cô Thục cứ 1 - 2 tuần lại đi khắp các vùng miền, phiên chợ, nơi bán đồ lưu niệm để tìm chất liệu. Nên với cô, từ miếng vải nhỏ nhất cũng là bảo vật vô giá, bởi đó là những thứ không bao giờ tìm thấy được lần thứ 2.
Thỏa hiệp với chuột.- Phạm Việt Long FB
Chưa bao giờ nhà ông An bà Nhân gặp phải con chuột quái đản như con chuột này. Phải nói, đó là con chuột đã thành tinh.
Thử hỏi nơi nào trên trái đất không có chuột? Nhưng, chuột ngày càng đông đúc như ở thành phố này, là điều không thể chịu nổi. Chuột lớn, chuột bé. Chuột lông vàng vàng. Chuột lông đen đen. Chuột săn chắc, giảo hoạt, nhanh thoăn thoắt. Chuột béo ục à ục ịch, lờ đà lờ đờ. Đủ mọi loại chuột, nhưng đều chung một đặc tính là chui vào nhà đục khoét, phá quấy.
Trong con ngõ nhỏ chỉ vài chục căn nhà liền kề này, lũ chuột hoành hành dữ dội. Trên khoảng tầng hai của hai dãy nhà dọc con ngõ, có những sợi dây điện bắc qua bắc lại, người ta đã làm lá chắn ở giữa để ngăn chuột, vậy mà chúng cũng leo lên, vượt qua, chui vào ban công, lần mò qua các khe cửa hoặc lỗ thoát khí, chui vào nhà.
Cảnh giác với lũ chuột, ông An bà Nhân bịt tất cả các khe hở, lỗ thông khí, không cho chúng đường vào. Cửa ra vào, cửa sổ cũng luôn luôn đóng kín. Riêng cửa ra vào có hai lớp, một lớp gỗ, một lớp kính, ban ngày ông bà vẫn mở ra cho thoáng, chỉ khi tối đến mới đóng lại. Cần cảnh giác nhất là vào lúc trời nhập nhoạng. Đó là khi lũ chuột rời hang ổ, lùng sục kiếm ăn. Ngày nào cũng vậy, cứ thấy trời nhá nhem tối là ông bà lại đóng kín tấm cửa kính lại. Nhưng, cũng có hôm quên, chưa đóng kịp. Và thế là trong nhà có chuột.
Sáng hôm ấy, bà Nhân hốt hoảng kêu: “Chuột vào nhà mình rồi!” Minh chứng cho nhận định của mình, bà Nhân chỉ tay vào đĩa hoa quả để trên bàn: “Chúng khoét cả chuối, lôi cả quả ổi xuống đất!”
Ông An trấn an vợ: “Yên tâm, tối nay thể nào cũng tóm được con chuột này!”.
Chả là, trong căn bếp nhà ông An có một cái kho nhỏ nằm dưới cầu thang, rất kín. Thường thường, lũ chuột, sau khi quậy phá vào ban đêm, tới gần sáng sẽ chui vào đó trú ngụ. Thế là, chỉ việc chui vào kho, đóng kín cửa và bắt chuột thôi. Kho nhỏ, không lối thoát, nhiều chú chuột đã bỏ mạng vì cái bẫy tình cờ này.
Gần sáng, ông An khua động một lúc để xua chuột vào nơi ẩn nấp, rồi đóng ập cửa kho lại. Ông chắc mẩm là chú chuột đã bị nhốt trong đó.
Như mọi lần, sau khi ăn sáng, ông An mở nhanh cửa kho, chui vào, bật đèn. Không có gì hết. Khua động, đập thùng kêu ầm ĩ, cũng chả thấy động tĩnh gì. Không biết con chuột này trốn ở đâu? Dọn sạch kho ra cho chắc ăn, cũng trống trơn, không một dấu vết chuột.
Thế thì dùng cách bẫy chuột vậy. Do chuột quấy phá dữ quá, con người đã làm ra đủ mọi phương tiện để tiêu diệt chúng. Tấm keo dính chuột. Lồng bẫy cổ truyền. Lồng bẫy thông minh. Bập bênh gài trên thùng nước. Lại cả bả chuột, độc tính cực mạnh, nhiều người đã tìm đến cái chết bằng thứ dành cho chuột này… Muôn hình vạn dạng, với mục đích cuối cùng là loại trừ lũ chuột khỏi căn nhà của mình. Người ta bảo chuột tài tình lắm, “thiêng” lắm, cho nên có người gọi là “ông chuột”. Lại còn râm ran lời đồn rằng, trước khi đặt bẫy, không được hé răng nói ra, kẻo “ông chuột” biết, sẽ tránh. Ông An làm theo như vậy. Lẳng lặng mua một hộp keo dính chuột với 4 tấm dính về. Đây là loại keo dính siêu đẳng. Người bán tấm keo kể rằng, có nhà, dính được con chuột to đùng. Sáng dậy, thấy nó bị dính ở lườn. Nó quẫy đạp dữ dội. Nó khỏe vô cùng. Một lúc sau, “bựt” một tiếng, con chuột vùng thoát được, chỉ để lại đám lông và mảng da lườn trên tấm dính. Tin tưởng vào tấm dính thần kỳ, ông An đặt vào những nơi mà ông biết chuột hay đến. Đặc biệt, bàn ăn là nơi chuột khoái nhất, đã nhiều con tót lên đây, xơi thức ăn no nê rồi mới chạy vào căn kho nhỏ, cho nên ông An đặt tới 2 tấm dính hướng về hai phía đầu bàn. Ở giữa tấm dính là miếng cá nướng thơm phức. Ông còn dùng chai lọ dựng thành tấm chắn, tạo hành lang cho con chuột chạy vào bẫy.
Sáng, bà Nhân dạy sớm hơn thường lệ. Xuống bếp, bật đèn, bà thất vọng kêu lên: “Chuột không dính keo rồi ông ơi!” Những tấm dính vẫn còn nguyên. Bực hơn, lọ lạc rang đã đậy kín nắp dùng làm hành lang dẫn chuột vào bẫy, bị nó ủi rơi xuống đất, vỡ tan tành. Những hột lạc rang mầu nâu đậm vung vãi khắp sàn bếp. Bà Nhân ngồi lê trên sàn nhà, nhặt từng hột lạc, miệng không ngớt càu nhàu về lũ chuột ranh ma.
Cứ vậy, ông An vận dụng đủ mọi cách để loại chú chuột tinh quái này ra khỏi nhà. Từ cách bẫy truyền thống đến cách bẫy hiện đại, từ cách làm của người nông dân tới cách làm của người thành phố để diệt chuột, ông vận dụng cả, nhưng con chuột vẫn ngang nhiên phá phách nhà ông.
Hôm ấy, cơ hội diệt con chuột tưởng đã đến nơi, vậy mà lại vuột đi mất. Chẳng là, vừa mở cửa buồng tắm, bà Nhân thấy con chuột đang loay hoay trên két nước bồn cầu. Bà đóng vội cửa buồng tắm lại và gọi ông An. Ông hé cửa, chui tụt vào rồi nhanh chóng đóng kín lại. Căn phòng tắm này cũng kín, ít đồ đạc – chỉ có bồn cầu, một chiếc giỏ đựng quần áo, một cái chậu nhựa và bồn rửa mặt. Ông đặt giỏ, chậu lên nắp bồn cầu, săm soi từng góc khuất. Chả thấy gì sất. Nghe bà Hương hàng xóm bảo chuột ở nhà bà đã từng bám vào đáy két nước bồn cầu, suýt trốn thoát, ông cũng xem xét kỹ đáy két, cả những góc nhỏ của bồn cầu. Tuyệt nhiên không thấy chuột đâu! Con chuột này biết tàng hình ư? Lại chịu thua nó lần nữa.
Hằng đêm, con chuột quậy phá, khiến cả nhà mất ngủ. Lúc thì nó nhảy lên bàn, kéo rơi mấy trái cây trên đĩa. Lúc nó gặm quả xoài chín – con này ranh lắm, xoài còn xanh hoặc chua, nó không gặm, chỉ nhè những quả chín ngọt mà xơi. Lần khác, nố leeo lên tận nóc máy điều hòa, lục cục một lúc rồi yên vị. Có lẽ nó lấy đó làm “tổng hành dinh”? Ông An lẳng lặng bắc thang, leo lên, đặt một tấm dính to, chờ. Thấy tấm dính động đậy, ông cười khẩy: “Thế chứ, mày chết đến nơi rồi!” Nhưng không phải thế. Tấm dính động đậy rồi cứ trồi dần, trồi dần ra. Chưa kịp xử lý, tấm dính đã rơi bẹt một cái xuống sàn nhà! Thật không thể tưởng tượng nổi, con chuột biết ủi cái bẫy khỏi nơi trú ngụ của nó! Ông An gầm lên một tiếng cho hả cơn giận.
Thế đã tức, nhưng tiếng động do con chuột gây ra mới tai hại vô cùng. Nó gặm kèn kẹt tấm vách gỗ. Sáng hôm sau, kéo chiếc tủ đựng dày dép ra, thì hỡi ôi, vách gỗ đã bị nó gặm nát nhừ một khoảng lớn. Chưa thỏa, nó lên tầng 2, chui vào phía sau chiếc tủ quần áo của bà Nhân, khua khoắng ầm ĩ. Bà Nhân dạy, lấy chổi đập phành phạch, nó im. Lên giường nằm một chút, nó lại loạt sà loạt soạt sau tủ. Tức mình, bà Nhân lấy cái dây thông ống nước thọc vào đó, ngoáy ngoáy. Nó im lặng chứ không chịu chạy ra. Bà lên giường, nó lại gặm gỗ kèn kẹt. Có cảm giác, hàm răng của nó là chiếc máy nghiền, liên tục nghiền không ngừng nghỉ, phát ra thứ âm thanh rợn người. Không thể nào ngủ được, bà Nhân lại dậy, thọc, ngoáy. Và nó lại im chứ không chạy ra. Thế này thì quá thể… Cuộc đấu giữa người và chuột kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Mãi khi mệt quá, lên giường ngủ thiếp đi, bà Nhân không còn biết là con chuột hoành hành kiểu gì nữa.
Sự việc cứ thế diễn ra, mỗi ngày một căng thẳng, mất ăn mất ngủ vì chuột. Rồi, một buổi tối, bà Nhân thấy con chuột chễm chệ ở bàn nước phòng khách, gặm nhắm gói kẹo - mấy đứa cháu quên không cất vào hộp. Bà đóng vội cửa bếp, không cho nó chạy vào, rồi gọi ông An xuống hợp sức tiêu diệt nó. Thấy động, con chuột dừng ăn, nghển cổ nhìn. Nhưng, nó không tỏ vẻ sợ hãi gì cả, lại cúi xuống gặm kẹo ngon lành. Tức ghê, nhưng đập nó đâu phải dễ? Không khéo lại vỡ bộ ấm chén.
Ông An lừa lừa, gạt chiếc phất trần một cái, sượt đầu con chuột. Nó nhảy dựng lên, vọt qua gầm chiếc tủ đài. Ông lấy chổi khua khua, nó lao ra, nhảy lên nơi ông An cất mấy bình hoa. Đó là một cái giá khá to, xếp đầy bình hoa, loại quý – từ pha lê tới đất nung, gốm sứ, trong đó có một bình hoa cổ, mầu đậm, cao nhất, nằm ở giữa. Con chuột đứng ở chiếc bình hoa cổ ấy, giương mắt nhìn ông An, vẻ khiêu khích. Ông bà chẳng làm gì được nó, cứ chạy quanh, hò hét. Nó không tỏ vẻ sợ hãi, bám vào thành bình, nghển cao cổ, giương đôi mắt tròn tròn, lồi lồi về phía ông bà, với vẻ giễu cợt. Có lúc, mắt nó lấp la lấp lánh vẻ ma quái. Hình như biết rằng đây là cấm địa, có thể bảo vệ mình, con chuột cố thủ ở cụm bình hoa.
Mệt mỏi, ông bà An – Nhân vào bếp, đóng cửa lại, pha nước uống. Bà Nhân bàn:
- Thôi, không diệt được nó thì đuổi nó ra khỏi nhà vậy!
- Thế thì thỏa hiệp với nó à?
- Chuyện, nó ranh ma như thế, không thỏa hiệp mà được à? Nó ra khỏi nhà là còn phúc đấy!
Hai ông bà bàn bạc một lúc, rồi tắt đèn, đóng cửa bếp, hé cửa ra vào. Lúc này trời mới tang tảng sáng.
Vậy mà thành công. Sau một hồi, con chuột nhảy khỏi bình hoa, phóng ra khỏi cửa!
***
Suốt một thời gian khá dài, nhà yên tĩnh, không bị chuột quấy phá nữa.
Đến một ngày, ông An chuẩn bị đón khách từ nước ngoài về.
Đó là một buổi sáng trời đẹp. Thời tiết dịu mát. Gió nhè nhẹ làm cho không khí thoáng đãng, con người cảm thấy thảnh thơi. Ông An mừng lắm. Hôm nay, thằng con trai học tận Mỹ quốc về, sẽ mời mấy bạn ngoại quốc của nó đến thăm ông. Bởi vậy, ông bà đã dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị nước nôi, hoa quả đàng hoàng. Chưa tới giờ, nhưng ông An đã mở toang cổng, cửa, ngóng khách.
Bỗng, ông giật mình đánh đụi một cái. Một vật nho nhỏ, đen đen băng qua chân ông, vọt vào nhà. Bà Nhân hét lên:
- Chuột! Chuột ông ơi!
Ông An vội quay lưng, chỉ kịp nhìn thấy con chuột nhảy vọt lên cầu thang. Ông lao theo. Con chuột lên hết tầng hai, vẫn không dừng. Ông chạy tiếp lên tầng ba. Nó vẫn lao lên như tên bắn, tới tầng bốn thì rẽ ngoặt vào căn buồng bên phải. Đó là phòng thờ nhà ông.
Hổn hà hổn hển, ông An lao vào phòng thờ. Kia, nơi bàn thờ, con chuột đã chễm chệ trên bát hương!
Bà Nhân cũng vừa lên tới nơi, thấy con chuột như vậy liền rít lên:
- Tao, tao thì giết mày!
Ông An đứng ngây ra. Chưa bao giờ ông thấy căm giận lũ chuột như lúc này. Mắt ông tối sầm lại. Đầu óc ông quay cuồng với đủ loại hình ảnh về chuột. Hóa ra bọn chuột này không bao giờ thỏa hiệp. Đuổi đánh thì chúng trốn tránh một cách tài tình. Bẫy, chúng không dính. Mở cửa dụ chúng ra, chúng chỉ tạm thời di trú, chờ lúc thích hợp tiếp tục đột nhập. Nhưng, chuột nhảy lên bàn thờ, đây là lần đầu tiên ông An chứng kiến. Thật không thể chịu nổi.
Ông An cứ đứng sững như vậy, mắt trân trân nhìn con chuột. Lúc này là cuối năm, nên bát hương còn đầy chân hương. Tàn nhang uốn cong cong, cuộn với nhau thành một chùm xam xám. Con chuột, hai chân sau đứng trên thành bát hương, hai chân trước ôm vào những cây hương. Nó ngó ngoáy, làm tàn nhang rụng xuống, phủ mầu xám nhạt trên thân hình đen đúa của nó. Ông An cảm thấy có lỗi với tổ tiên, để cho thứ uế tạp này quấy quả ở chốn linh thiêng nhất của gia đình. Mắt ông nhòe đi. Miệng ông lầm rầm khấn vái. Bỗng nhiên, bát hương bùng lên, lửa bốc phừng phừng, khói tỏa mù mịt…
Phạm Việt Long