Mời Xem Lại :
30 thg 9, 2025
TIN BUỒN VÀ PHÂN ƯU ( Thầy Nguyễn Văn Lượm Tạ Thế :29/9/2025 tại Q.8-SG.VN ):
Mời Xem Lại :
LỜI TIỄN BIỆT THẦY NGUYỄN VĂN LƯỢM (Đỗ Công Minh K.8-SPSG
Đỗ Công Minh-K8 SPSG
Tin từ Đặng Việt Lơi
Cánh Đồng Cà Mau , Vựa Cá Mắm Thiên Nhiên Trời Dành Cho Dân Việt - Vương Hồng Sễn
Ăn Cơm Mới, Nói Chuyện Cũ: Hậu Giang – Ba Thắc được Vương Hồng Sển viết năm 1974, duyệt lại năm 1978; là những gì ông chưa viết trong Hơn Nửa Đời Hư, và cũng được gọi là hồi ký.
Những nếp sinh hoạt, các sự kiện, nhân vật và đất đai thủy thổ của Miền Nam cũ, đặc biệt là vùng Hậu Giang hồi đầu thế kỷ trước được kể lại và so sánh với thời điểm ông viết. Các mốc thời gian lùi dần theo dòng hồi ức, cũng tiện cho người đọc hôm nay — khi đọc, sẽ đặt mình ở điểm “giữa” tức khoảng năm 1974); chúng ta có cái lợi thế được thấy quá khứ của một vùng dất mới và cả “tương lai” mà tác giả lúc đó chưa thể biết.
oOo
Con sông lớn Mỹ Công (Mékong) từ Tây Tạng chạy suốt trên bốn ngàn cây số bề dài, như con rồng chín khúc (Cửu Long giang), xuyên qua Tây Tạng, Trung Hoa, Lào quốc, Cam-bu-chia và Việt Nam. Khi nhập vào đất Nam, nó chia làm hai nhánh con sông Tiền và con sông Hậu, và đèo thêm hai cái “túi thật lớn” chứa giữ nước dư ối là vùng Tháp Mười về sông Tiền và vùng Cà Mau về sông Hậu. Nhờ hai túi nầy đủ sức chứa nước thặng dư vào mùa nước đổ mà Miền Nam khỏi nạn lụt như Miền Bắc đã bị con sông Nhĩ Hà làm khổ mỗi năm. Nghĩ trời sanh cũng ngộ: sanh ra sông dữ thì có đất hiền, bù qua chế lại. Trên Miền Bắc, đê bọc sông và khi đê vỡ thì cả vùng ngập lụt chết chóc. Trái lại ở Cam-bu-chia nhờ có Biển Hồ (Tonlé sap), mỗi năm chứa nước từ cao nguyên chảy xuống, bao nhiêu cũng rút về đây rồi sẽ chảy đi nữa. Biển Hồ là cái túi “lộc trời” dành sẵn: cá tôm lúc nhúc kẹo lền, nuôi đủ một dân tộc. Sở dĩ ngày xưa Đế Thiên Đế Thích được xây dựng là nhờ người Cao Miên cổ đã biết lựa vị trí gần hồ cá tôm Tonlé sap.
Nhớ lại câu hát xưa:
“Nam Vang đi dễ, khó về,
Đàn ông có vợ, đàn bà có con”.
Câu nầy có đến hai nghĩa: nghĩa thứ nhứt, vì xứ dễ làm ăn, cá tôm rẻ mạt cho nên đàn ông lấy vợ, đàn bà lấy chồng rồi ở luôn trên ấy. Nghĩa thứ hai là ngụ ý đàn ông trai tráng đất Việt lên Nam Vang xứ Thổ, thường đi làm cá mắm trên Biển Hồ cực nhọc vô ngần và bởi lấy vợ tại chỗ, sanh phương lập nghiệp dính gốc dính rễ luôn trên ấy. (Trừ phi ngày nay chiến chinh chánh trị không cho phép, chớ trước kia cách nay vài chục năm Sài Gòn và Nam Vang có xe đò chạy liền liền hằng bữa, người dân có một giấy thông hành tùy thân là lên xuống thong thả, không đợi phép tắc gì).
Người dân Việt ở Nam Vang thuở ấy vẫn được kính trọng và chiếm nhiều địa vị quan trọng trong chánh phủ cũng như trong nhiều ngành kỹ nghệ, trừ có ngành thương mại là luôn luôn vẫn ở trong tay người Trung Hoa nắm giữ.
Còn nói gì đàn bà con gái Việt, làm gì nước da cũng trắng và vóc giạt cũng thanh hơn gái Thổ, cho nên đừng lên đất Nam Vang thì thôi, chớ bước chân lên rồi là khó có đường về, dầu tệ cũng được chấm ngay, rồi sanh con đẻ cháu, chằng chịt dây tình, làm sao nói ra mà về đất Nam lại nữa?
Mặc dầu vấn đề chánh trị ngày nay chia cách chớ trong xã hội bình dân, người Miên và người Việt không quá chia cách như nhiều người lầm tưởng. Sự đồng hóa và sự giống nhau rất gần, nhứt là ở đất Hậu Giang, kể từ Châu Đốc xuống tận mũi Cà Mau, người Miên, người Việt vẫn sống chung đụng với nhau từ nhiều đời và ít khi có xảy ra chuyện rắc rối. Người Miên có tánh hay mắc cỡ và ít nói, cho nên biết tánh họ rồi thì người Việt ở chung với họ lâu năm cũng tập tánh ít nói và bắt chước sụt sè như họ cho dễ làm ăn dễ thù tạc vãng lai. Duy khi nào có tửu nhập tâm, có vài ngụm ba xi đế “khai khẩu”, thì khi ấy mặc tình cho đôi bên “phá thạch”, cười nói như bắp rang, và hết sụt sè. Nghĩ cũng ngộ cái câu liên lạc làm cho hai dân tộc càng thêm khắng khít nhau lại là tiếng chửi thề qua lại, thế mà không giận. Và có lẽ vì ít nói nhưng giỏi thực hành, nên thốt ra tiếng nào là có kết quả tiếng đó. Cho nên đừng lấy làm lạ sao giống Việt lai Miên và Miên lai Việt ngày nay quá đông đảo như vậy.
Nghĩ cho hai giống dân, một đàng chịu nhiều văn hóa Ấn, ấy là người đàng Thổ, và một đàng hấp thụ nhiều văn hóa Tàu, ấy là người Việt, thế mà hai giống nầy hạp nhau đáo để và rất thích nhau vì xét ra vẫn có nhiều tiểu tật và nhiều đức tánh như nhau. Có thể nói không có dân nào có máu mê cờ bạc và mê rượu trà hơn người Miên và người Việt Miền Nam.
Họ nghèo sát giường sát chiếu, có khi gia tài chỉ còn một cái nóp làm sự nghiệp duy nhứt, ban đêm trải ra, chun vào đó mà ngủ vừa tránh muỗi đốt muỗi thiêu, vừa được ấm áp khỏi tốn chăn mền bề bộn, và mất tiền. Ban ngày cuốn lại quảy lên vai với ba mớ áo quần không đáng mấy đồng tiền, thân làm “con gặt” nổi trôi, đến mùa lúa chín, từ Tân Anh Vũng Gù, từ Vĩnh Long, Ba Càng, quảy nóp thả bộ xuống gặt mướn và cắt lúa chín cho các chủ điền lớn miệt Hậu Giang, Sốc Trăng, Bạc Liêu. Thế là trong đoàn làm gì cũng có một vài anh tài tử, vai quảy nóp, tay xách lưỡi hái, còn tay kia ôm trum trum một con gà nòi đá độ. Đó là con vật cưng nhứt trong đoàn, vừa là anh quân canh trung tín đánh thức giấc buổi rạng đông, vừa là lá cờ đại diện của nhóm dân nghèo, đến xứ lạ cáp và đá với gà Miên. Thua thì đồng thua tiền, hùn góp chút ít mua vui, còn nói gì thắng thì hỷ hạ hả hê cả đám. Có khi họ đem ống tiêu ống sáo theo, và khi ấy mặc sức xuy tiêu và đờn ca hát hò.
Người Miên cũng có con gặt của họ và cây lưỡi hái Miên vẫn có vẻ mỹ thuật và làm công phu hơn cây lưỡi hái của ta nhiều. Cây lưỡi hái Việt là một cháng hai có hai nhánh, thường là của cây ổi hay cây duối, cắt cưa rồi tra lưỡi thép bén là xong. Đó là khí cụ của nhà nông ta dùng mà cắt lúa gọn gàng từ nhiều đời lưu truyền lại. Cây lưỡi hái của người Miên vẫn khéo hơn nhiều. Họ lựa cho được một nhánh ổi già vừa tay cầm, phải có hình cong chữ “S”, họ cưa đúng cỡ, đem về cạo gọt tron bén, thui lửa rơm cho cây mau lên nước và cây mau có màu đen láng bóng, nơi hai đầu nhọn họ lại khắc sâu hình ốc sên cho thêm vẻ mỹ thuật, xong xuôi rồi mới tra lưỡi thép, có khi họ lại bịt bạc nơi khúc giữa chỗ cầm tay, và cây lưỡi hái ấy họ truyền tử lưu tôn nhiều đời trân trọng như một gia bảo. Đến mùa thì lấy xuống dùng, mãn mùa thì vắt vách thoa dầu dừa để gần bếp có khói xông cho khỏi mối mọt ăn.
Con gà nòi Miên cũng khác về tánh tình và khả năng. Gà Việt lanh lẹ chém dữ nhưng dở chịu đòn. Gà Miên tuy chậm chạp ít chém nhưng đá đòn chắc nịch, thêm giỏi tài chịu đựng, không bao giờ bỏ chạy bậy, và có nhiều độ khi đá đến nước khuya, con gà chém dữ bị đánh đau thấm đòn rồi bỏ chạy êm, trong khi ấy con gà lẽ đáng thua nhờ gan lỳ giỏi đứng chịu đòn, thét rồi con gà kia ít gan lỳ hơn bỗng vụt bỏ chạy và con gà đáng thua lại được cuộc, “phản độ” là vậy.
Người Miên và người Việt củi lụt làm ăn đã biết dư nhau những tiểu tật của mình nên càng gần nhau càng dễ tha thứ cho nhau và đã thầm lén đôi bên mua giống của nhau rồi gầy đúc lại giống mới. Gà Miên mái pha gà nòi trống Việt hoặc gà nòi Miên cáp với mái Việt sanh ra giống nòi lai mà đại diện trứ danh là gà nòi đất Cao Lãnh, vừa chém nhạy cựa, vừa giỏi chịu đòn. Tôi nếu không hư, thì đã không sa đà kết thúc đột ngột sánh người với thú và luận rằng xưa nay “nhơn vật đạo đồng”, và người Việt cũng như người Miên có lợi mà tương thân tương trợ nhau hơn là nghe lời đệ tam nhơn rồi cấu xé, chia rẽ nhau.
Tại Miền Nam còn sót nhiều câu hát:
“Ai đua Sông Trước thì đua,
Sông Sau có miếu thờ vua thì đừng”.
Đây là câu hát nhắc lại công lao vua Cao Hoàng Nguyễn Ánh đối với dân chúng miệt Hậu Giang.
Còn như câu:
“Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc,
Gió nào độc bằng gió Nam Vang”.
(cũng hát: “Đất nào dốc bằng đất Nam Vang”)
“Ngọn gió thổi sang lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt ròng ròng tuôn”.
Câu nầy hiểu theo địa dư thì đời đàng cựu tại Châu Đốc xưa có đèn và cờ “Thủ ngữ” làm lịnh, còn đất Cao Miên vẫn cao ráo và dốc hẳn hơn Miền Ba Thắc đồng bằng. Hiểu một cách khác thì là lối tỷ hứng ám chỉ một đôi vợ chồng nào đó vì sinh kế chia tay nhau, kẻ lên Cao Miên tìm sở làm rồi ở luôn trên đó lập gia đạo mới, khiến cho người đàn bà bị bỏ rơi than thân trách phận, nghe mà não nuột.
Trở lại đề tài “Vùng Cà Mau là vựa cá mắm thiên nhiên”, thì có lẽ xứ Hậu Giang quả đúng là đất lành. Mấy năm trước cá mắm không biết làm sao cho hết. Mùa nước đổ tôm càng xứ Sa Đéc nhiều cho đến đỗi lấy thùng thiếc đong mà bán và năm 1927-1928, lúc tôi còn làm việc ở đó tôi từng mua một đồng bạc đến bốn thùng thiếc tôm tươi, thứ thùng mười tám lít. Còn bắp trái trên cây bẻ xuống bán mỗi trăm là hai cắc bạc (0$20) thiệt là rẻ mạt. Muốn ăn tôm càng tươi nướng lửa lò, chỉ cần sắm đủ đồ gia vị và rượu ngon rồi đề huề cùng năm ba bạn tri âm xuống tam bản chống ra ruộng nước ngập mùa tháng tám tháng chín sẵn đêm thanh gió mát trăng nước đầy thuyền, mặc tình vừa ca hát vừa chống chèo lựa mấy chiếc xuồng câu giăng của mấy chị mười lăm mười sáu tuổi, trả năm ba xu cao lắm là một cắc một hào rồi trút hết cả giỏ tôm càng, tha hồ nhậu nhẹt.
Lò sẵn lửa sẵn vừa ấm vừa vui, tay nướng tôm tay nâng chén rượu, tôm chín bẻ đầu vứt bỏ cục đen đen còn lại gạch tôm chan một muỗng nước mắm ngon, kê miệng húp gạch vô tới đâu béo tới đó, thiệt là khoái khẩu, khoái tận mây xanh. Ăn xong đầu tôm, lấy một miếng bánh tráng (bánh đa), vói lấy con tôm lột vỏ bỏ đuôi kẹp mấy cọng rau thơm rồi chấm hết vào tô nước mắm, cười nói giòn tan, canh càng khuya trăng càng tỏ, rượu càng thêm hứng chí, quên hết sự đời. Thiệt rất khác với cảnh ngày nay, ban đêm không dám nói ra khỏi mùng mà còn sợ tai họa từ đâu bay đến. Tính coi năm 1928, ở Sa Đéc, bốn thùng thiếc tôm giá một đồng bạc, còn nay một con tôm ướp lạnh trả ba trăm bạc, không bán, nên ngày nay cái thú ăn tôm càng nướng chỉ còn trên giấy trắng, và trong trí nhớ.
Theo con nước đổ, xuống nữa là tới Chợ Vãng (Vĩnh Long), có cá thu cá hồng con thì kho rục (như) con thì nấu mẳn ngon lành. Xuống thêm chút nữa và gặp mùa gió bấc lai rai có sa mù nhiều, ấy là mùa cá cháy của vùng Trà Ôn, Cầu kè chạy dài xuống Vàm Tấn (Đại Ngãi, Sốc Trăng). Đây là con cá đặc biệt và ngon nhứt của xứ Hậu Giang, xưa không tiến vua được vì chài lên khỏi nước là cá đã chết không rộng không để dành được phút nào. Nhưng một con cá cháy tươi, mười cỗ cơm Tàu Chợ Lớn không đổi. Cá cháy xương rất nhiều, thêm xương có cháng hai rất dễ xóc vào miệng vào mồm, những kẻ láu táu là biết với nó. Duy thịt cá tươi thì ngon ngọt vô cùng, và không biết mua gặp cá bủn thì nuốt không vô. Cá cháy trống, ăn nướng nguyên con dầm nước mắm Hòn là ăn quên thôi, nếu có chút bơ thoa vào là ngon tuyệt. Cá cháy mái, đến mùa đẻ lên sanh trên sông Hậu khúc Trà Ôn, Đại Ngãi, bụng trứng óc nóc, khi vớt lên được, hoặc nấu cháo là ngon đáo để, hoặc kho một lửa với nước dừa, ăn với bún thì và không kịp đếm, hoặc ăn với cơm thì cơm bới quên thôi. Nhưng tôi xin dặn nhỏ, đừng vì lạ miệng mà ăn quá chén, nhứt là lựa trứng ăn nhiều, qua bữa sau ngồi đâu rịn đó, nhớ đem tã theo mà lót! Trứng cá cháy có rất nhiều dầu, nên béo ngon là phải. Tiếc thay từ ngày có binh lửa, cá nầy biến mất trên con sông Hậu, kẻ thì nói vì giờ thiết quân luật quá nghiêm, người chài lưới không ra đúng giờ nên không bắt được cá, kẻ khác, khoa học hơn, thì cho rằng khúc sông từ Đại Ngãi lên Trà Ôn bị tàu chạy xả dầu quá nhiều, nước bị ô nhiễm, cá cháy sống không được nên đã di cư nơi khác. Con cá cháy ở Vũng Tàu, một đôi khi cũng có bán, nhưng thịt cứng không ngọt, có lẽ vì cá nầy ở biển mặn, không bì con cá cháy ở Trà Ôn sống lâu ngày trong nước ngọt nên thịt có khác.
Xuống thêm nữa thì tới miệt Bạc Liêu, tôm lóng và tép bạc kẹo lền đầy sông, ăn tươi không hết phải phơi khô, còn vỏ tôm thì lấy làm phân bón trồng dưa hấu bán tết và trồng rau cải. Xứ Bạc Liêu có rất nhiều cá chốt và một thi sĩ vô danh nào đã để lại một câu hát độc địa:
“Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu”.
Lấy cá chốt là loại ăn bẩn ăn do đem so với người Tiều, tức người Trung Hoa sanh trưởng ở huyện Triều Châu, thì ác miệng thật. Nếu tác giả câu nầy từng thấy gái Tàu gốc Tiều lai Miên, thì ắt không sáng tác câu hát ác độc kia.
Từ Bạc Liêu đi một đỗi gặp một cánh đồng thấp phì nhiêu vô cùng, nhưng đặc biệt là nước sông rạch đều một màu đen thâm gần như mực xạ. Tiếng Cao Miên gọi “srock tực khmau”, dịch “sốc nước đen”. Ông bà chúng ta Việt hóa thành Cà Mau, chớ không phải “Cà Mâu” như nhiều đồng bào thường viết và đọc.
Như đã nói, sình sát bên thuyền, hai đứa đi sau đẩy một cái thúng thật lớn trong có nước lấp xấp chứa đầy cá, còn hai đứa đi trước thì chuyên việc bắt cá cho vào thúng. Mà chớ chi chúng nó bắt một cách khổ nhọc thì cũng đành, đàng nầy chúng nó làm như giả ngộ, bắt dễ ợt mà cá ở đâu để chúng bắt được quá nhiều. Nhiều thật nhiều chớ không chơi. Tính coi chúng nó lấy tay vét sơ dưới bãi một lỗ trũng tròn tròn như lòng chảo, vừa bằng một cái rổ trẹt trẹt, chúng bẻ sơ hai lá dừa nước che lúp xúp cho mát cái trũng, xong rồi một đứa lấy tay bốc một bốc cám rắc sơ sài nơi miệng trũng, – tôi viết chưa hết câu, – thế mà không biết cá ở đâu thoạt tuông vào “nghe một cái ồ”, cá đầy nhóc lỗ trũng và toàn cá ôi là cá, lúc nhúc nhảy soi sói, chúng nó chỉ còn xúc qua thúng rồi đẩy cái rổ tới trước, tiếp tục cái việc bắt cá dễ như trò chơi mà có ăn thiệt. Thiệt là quá sức tưởng tượng.
Tuy vậy, cái xứ cá đầy thúng nầy, nước vẫn đục và đen ngòm, truy ra vì đó là nước ứ đọng từ lâu năm trong những gốc mục của rừng dừa nước quanh năm chầy tháng lá dừa và bẹ dừa nước mục nát hết đi và tiết ra một chất mủ đen làm cho nước dưới chưn rừng dừa cũng đen theo, chảy lờ đờ quanh đi lộn lại, cũng hoàn chỗ cũ. Nước nầy xem lại chứa đựng rất nhiều sinh vật, đặc biệt nhứt là con ba khía, tức một loại cua còng nhỏ con, tới mùa nó leo lên cây không biết cơ man nào mà kể. Người thổ dân bắt ba khía cho muối vào làm ra thứ mắm để ăn quanh năm và dân nhà giàu Ba Thắc không nệ hà đãi khách sang bằng mắm ba khía khi nêm chanh ớt cho dịu, vì ba khía để dành lâu “ăn rất bắt cơm”. Ngoài ra trong nước còn chứa loại cá nước mặn và vô số tôm tép cua rùa, v.v…
Nước ấy tuy đen vì là nước trầm thủy, nhưng không độc. Người xứ Cà Mau vẫn dùng để ăn để uống và pha trà, duy người lạ đến đây thấy vẫn ngờ ngợ nhát uống. Coi vậy mà đó là nước mưa pha lá dừa nước, uống không sanh bịnh tật duy màu khó coi, không như nước nơi rừng khác thấy trong veo đẹp mắt mà uống độc bất ngờ. Cũng vùng Cà Mau có giống tràm mục lưu lai nhiều đời, lá rụng cây ngã giữ nước đọng lại rồi nát thành bùn, biến ra một chất “than đá non” “nê thán” (tourbe), xắn vuông vắn phơi cho khô, chụm rất tốt. Đó là một nguồn hoa lợi rất lớn về tương lai mà nước ta chưa khai thác vậy.
Vương Hồng Sển
(Chọn Lọc số 10 ngày 30-1-1966)
(Duyệt 2 VI 78)
Nguồn: E-Book Biên Khảo

29 thg 9, 2025
THĂM LẠI CHỐN XƯA (Pham Bắc -SPSGk.13 )
Ba tuyệt phẩm của Heinrich Heine (Diển Đàn Khai Phóng )
Trong tập thơ “Nước Đức. Cổ tích mùa đông”
Biên soạn: Hoàng Lan
Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu những bài thơ xuất sắc nhất của những tác giả tài danh trong lâu đài thi ca Đức, được thể hiện trong tập thơ dịch “Nước Đức – Cổ tích mùa đông” của TS Phan Kim Hổ. Sau Goethe, chúng ta có thể nghĩ ngay đến Heinrich Heine, mà tên tuổi không còn bị gò bó trong ranh giới nước Đức, mà đã trở thành ngọn hải đăng của văn học thế giới. Ngày hôm nay, cùng với Goethe, ông là tác giả Đức danh giá bậc nhất, mà tên tuổi còn được lưu truyền trong nhiều quốc gia. Một số lượng không nhỏ các bài thơ của Heinrich Heine đã được phổ nhạc bởi những nhạc sĩ tài danh như Robert Schumann, Franz Schubert, Richard Wagner. Những bài hát đó vẫn chạm đến cảm xúc người nghe và lay động chúng ta cho đến tận bây giờ. Heinrich Heine được xem là một trong những đại diện cuối cùng và đồng thời là người vượt qua Chủ nghĩa Lãng mạn, để bước vào giai đoạn mới, làm người tiên phong của Thi ca hiện đại. Ông đã đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ ca, nâng thể loại văn học bình dân và bút ký du lịch lên thành một hình thức nghệ thuật, và mang đến cho văn học Đức một vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng chưa từng có trước đó. Cựu Tổng Thống Đức Roman Herzog từng phát biểu: „Dù Heinrich Heine, như mọi nghệ sĩ, có những người tiền nhiệm và kế thừa, dù ông là đứa con của thời đại mình, ông vẫn là một hiện tượng độc nhất“.
Harry Heine, tức Heinrich Heine (1797 – 1856) là một trong những thi nhân hàng đầu của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu. Nhưng ở Heine, tính lãng mạn không còn bị gò bó trong khuôn thước tình yêu trai gái, mà nó tỏa sáng trong một không gian rộng lớn hơn nhiều. Đó là tình yêu con người, yêu phẩm giá đạo đức, yêu giá trị thiêng liêng trong đời sống, yêu không gian bình đẳng, tự do, trong một thời kỳ khi mà châu Âu vẫn còn bị ngự trị bởi các vương triều chuyên chế hà khắc. Heinrich Heine vẫn tự gọi mình là “đứa con tự do hơn nhiều của sông Rhine tự do”, như ông từng viết trong lời tựa tập trường thi hơn 2000 câu „Nước Đức. Một chuyện cổ tích mùa đông“ (Deutschland. Ein Wintermärchen) xuất bản năm 1844, tác phẩm đã làm ông một lần nữa rơi vào tầm ngắm của vương triều Đức. Tác phẩm bị tịch thu và cấm phổ biến. Cuối năm đó, vua Phổ còn phát lệnh bắt Heinrich Heine. May mắn thay, Heine lúc ấy đang còn lưu vong ở Paris.
Cũng chính vì tính lãng mạn nhân văn, mà Heinrich Heine dễ bị cuốn hút vào trào lưu cách mạng ngày càng dồn dập ở tiền bán thế kỷ 19 ở châu Âu. Heinrich Heine chưa bao giờ là một nhà cách mạng, mà chỉ làm người quan sát, ca tụng nó, diễn đạt cảm xúc của mình bằng phong thái lãng mạn đầy tính nhân văn đối với những biến cố cách mạng. Nhưng cũng nhờ thế, thơ của Heine đã làm rung động biết bao trái tim thanh niên trí thức, có tác dụng thôi thúc họ dấn thân tham gia vào cách mạng. Trong tâm thái nhân văn đó, Heinrich Heine dần dần thoát ra khỏi chủ nghĩa lãng mạn cổ điển, để trở thành người tiên phong của trào lưu thi ca hiện đại, mà tinh thần của nó dựa trên ý niệm tự do, trong một thời đại mà đời sống chính trị là biểu tượng của bảo thủ, trì trệ, bạo lực, áp bức. Đó là thời kỳ mà lịch sử Đức gọi là kỷ nguyên Trước Tháng Ba (Vormärz), đánh dấu thời kỳ hổn loạn chính trị, tranh chấp ý thức hệ giữa chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phục hồi (Restauration). Đó là thời kỳ bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830 tại Paris cho đến cách mạng dân chủ tháng 3 năm 1848 ở khắp các nước Tây Âu.
Những tác phẩm mang phong thái nhân văn, đầy sáng tạo về hình thức, đồng thời mang nội dung phê phán xã hội đã khiến ông trở thành người tiên phong, một ngọn hải đăng của Thi ca hiện đại, với số lượng độc giả yêu mến ngày càng nhiều, nhưng đồng thời, phản ứng của các thế lực thù địch cũng ngày càng gay gắt, nhất là phản ứng của các vương triều chuyên chế. Giống như nhiều trí thức, văn nghệ sĩ cùng thế hệ, Heinrich Heine phải chịu đựng bầu không khí chính trị ngột ngạt của loại nhà nước cảnh sát ở Đức trong thời đại Hậu-Napoléon. Việc sáng tác văn học của Heine bị phủ bóng bởi chế độ kiểm duyệt hà khắc, đi kèm với sự đe dọa, đàn áp đối với những văn nghệ sĩ có xu hướng tự do. Đấy là chưa kể, nguồn gốc Do Thái của mình đã biến ông thành tâm điểm của biết bao cuộc tấn công do sự thù hận từ mọi phía, từ chính quyền, từ môi trường nghề nghiệp, cho đến những hiệp hội, những văn nghệ sĩ có tư tưởng bài Do Thái. Heinrich Heine được nhiều người ca ngợi và cũng bị những người khác ruồng bỏ. Chưa từng có thi nhân Đức nào khác đã tạo ra những phản ứng dữ dội như vậy.
Bị thúc đẩy bởi sự thất vọng và vỡ mộng về tình hình chính trị nước Đức, nơi không có chỗ đứng cho những nghệ sĩ thuộc xu hướng tự do như ông, Heinrich Heine quyết định rời quê hương Đức năm 1831 để sang định cư ở Paris, sau sự thành công vang dội của các lực lương dân chủ tự do Pháp trong cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830. Heine hy vọng rằng ở đó, ông với tư cách là một nghệ sĩ tự do, sẽ có một môi trường tốt đẹp để sáng tác. Khi nghe tin cuộc cách mạng tháng 7 ở Paris đã thành công, Heine viết như sau vào ngày 10 tháng 8 năm 1830 trên đảo Helgoland để ca tụng những chiến sĩ cách mạng: “Tôi là đứa con của cách mạng và tôi lại cầm lấy vũ khí được người ban phước. Ôi những đóa hoa! Đóa hoa! Tôi muốn đội vòng hoa lên đầu để chiến đấu đến chết. Và cả đàn Lyra nữa, hãy đưa cho tôi cây đàn Lyra, để tôi hát những bài ca xung trận… Lời ca sẽ giống như những ngôi sao bốc cháy, lao xuống từ trên cao, đốt cháy các cung điện và soi sáng những túp lều …”. Chắc hẳn cuộc cách mạng dân chủ đó làm cho Heine quyết định di dân sang Paris, với hy vọng được sống trong không khí tự do để sáng tác. Paris trước đó đã là biểu tượng của văn chương, nghệ thuật, tự do, tiến bộ. Tưởng rằng chỉ là chuyến đi tạm lánh nạn vài năm, nhưng không ngờ ông đã sống ở Paris suốt nửa đời người, cho đến ngày mất năm 1856. Paris không chỉ là nơi Heine sống lưu vong, mà đã thực sự trở thành quê hương thứ hai của ông.
Vào thập niên 1830, trong lúc ở Đức, Heinrich Heine trở thành người hùng của một thế hệ nghệ sĩ trẻ tiến bộ, thì ở Paris, với phong cách hóm hỉnh, thông minh và nhanh trí, ông là khách mời được săn đón nồng nhiệt trong các câu lạc bộ học thuật của thủ đô nước Pháp. Heinrich Heine nhanh chóng trở thành vị sứ giả văn học cho hai quốc gia láng giềng, một bên là quê hương nơi chôn nhau cắt rốn, bên kia là quê hương thứ hai, nơi tài năng của Heine được phát triển sung mãn. Ông kết bạn với những nhân sĩ hàng đầu của Pháp như Victor Hugo, Alexandre Dumas, Théophile Gautier, Eugène Delacroix…, những nghệ sĩ nổi danh của Đức tạm lưu vong ở Paris như Frédéric Chopin, Franz Liszt, Ludwig Böhne, Richard Wagner… Heine giữ liên lạc với những người tiên phong trong phong trào công nhân Đức, với người em họ Karl Marx và những người bạn cấp tiến của Marx.
Heinrich Heine đã làm tròn vai trò sứ giả văn học cho hai quê hương. Ông giới thiệu cho người Pháp về thơ ca và triết học Đức như Về Lịch sử Tôn giáo và Triết học ở Đức (Zur Geschichte der Religion und Philosophie in Deutschland – 1835), hoặc Trường phái Lãng mạn (Die romantische Schule – 1836). Đồng thời ông viết về nước Pháp cho độc giả Đức, thí dụ tình hình chính trị Pháp: Tình trạng nước Pháp (Französische Zustände – 1833), hoặc về nghệ thuật, sân khấu, âm nhạc ở Paris, như Họa sĩ Pháp (Französische Maler – 1833), Về sân khấu Pháp (Über die französische Bühne – 1838). Và khi cuộc tranh luận văn học, chính trị ở Đức được khơi lại vào thập niên 1840, Heine đã lên tiếng từ Paris với những đóng góp được ưa chuộng rộng rãi như Atta Troll. Giấc mộng đêm hè (Atta Troll. Ein Sommernachtstraum – 1843), hoặc Nước Đức. Một chuyện cổ tích mùa đông (Deutschland. Ein Wintermärchen – 1844), hoặc Thơ ca thời đại (Zeitgedichten – 1844). Tiếc thay, cuộc đời không hề ưu ái một tài năng lưu vong. Là một nhà thơ Đức, Heine tất yếu phải dựa vào độc giả Đức; nhưng lệnh cấm hành nghề và cấm xuất bản mà chính quyền Đức áp đặt vào cuối năm 1835 đối với ông và bốn nhà văn trẻ của nhóm “Nước Đức Trẻ – Junges Deutschland” đã giáng một đòn nặng nề lên đời sống kinh tế của Heine, mặc dù ông đang ở nước ngoài.
Nhưng không riêng lĩnh vực văn học, với phong thái nhân văn, Heinrich Heine là cầu nối lý tưởng giữa tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ Pháp và Đức. Ông là một người quốc tế, một vị đại sứ quan trọng bậc nhất giữa Đức và Pháp trong thế kỷ 19. Với đạo đức xã hội của mình, Heine là người con được chào đón trong mọi cộng đồng yêu tự do. Văn sĩ người Pháp Alexandre Dumas từng nói: „Nếu Đức không muốn nhận Heinrich Heine, chúng tôi sẵn lòng cưu mang anh ấy. Nhưng tiếc là anh ấy yêu nước Đức hơn mức nó xứng đáng được yêu đến thế“. Ở Paris, Heinrich Heine luôn mang trong lòng một nỗi buồn man mác, thường mất ngủ vì nhớ nhà, nhưng sáng dậy, khi những tia nắng buổi sáng xuyên qua cửa sổ, ông lại thấy vui mừng vì một ngày mới vui tươi theo phong cách Pháp bắt đầu.
Có lần, Heinrich Heine viết thư cho mẹ: „Mẹ ạ, con chẳng làm nên trò trống gì trên đời này“. Chắc hẳn Heine đã sai khi nói thế. Heine không biết rằng, có hàng triệu người trên thế gian đã được ông ban cho những phút giây xuất thần, những tâm thái bình an khi đọc tác phẩm của ông, dù đó là những bài thơ lãng mạn, hay những câu thơ châm biếm. Những cảm xúc của ông đã êm ái truyền qua độc giả, dù là tình yêu hay thù hận, chúng vẫn bị phong thái hài hước và châm biếm của ông làm hồn thơ trở nên dịu nhẹ. Có nhà phê bình văn học nói rằng, Heine là người đầu tiên mang giọng điệu châm biếm vào thơ ca trữ tình Đức, vốn dĩ có phong thái rất nghiêm túc cho đến lúc đó. Điều này cũng mang tính đột phá như việc ông là người đầu tiên đã tiếp cận ngôn ngữ tiếng Đức đời thường để thi vị hóa nó và đưa vào ngôn ngữ thơ ca. Gia tài mà Heinrich Heine để lại quá đồ sộ, sao có thể gọi là „chẳng làm nên trò trống gì“.
***
Đó là vài nét về cuộc đời Heinrich Heine. Bây giờ, mời các bạn thưởng thức ba tuyệt phẩm của ông, kèm theo những lời giải thích của chính người dịch Phan Kim Hổ về nội dung, thể thơ và cách gieo vần trong các bài thơ.
Bài số 1: Nước Đức. Chuyện cổ tích mùa đông (Deutschland. Ein Wintermärchen). Trích chương 1.
“Nước Đức, chuyện cổ tích mùa Đông“ là tựa một tập thơ 75 trang, bao gồm phần dẫn nhập, 27 chương (Caput), 535 phân khúc, tổng cộng là 2059 câu và phần bổ túc ở cuối, mang tính châm biếm và trào lộng, đả phá nhà nước quân phiệt Phổ và giới tăng lữ.
Trong phần bổ túc, Heine có viết thêm 11 phân khúc, kể lại nguyên nhân, thời lượng của chuyến đi, kèm theo các lời bình luận, những lời châm chọc sâu cay.
Ông sáng tác tập thơ sau chuyến đi từ Pháp về Đức năm 1843, bước qua biên giới, xuyên qua các thành phố, các địa danh nổi tiếng để đến viếng thăm mẹ và nhà phát hành các tác phẩm của ông. Ở mỗi chặng đường, ông ghi lại cảm tưởng và nhận xét của mình.
Mô hình vần: Chỉ có câu 2 và câu 4 vần nhau trong mỗi phân khúc 4 câu thơ
| Deutschland. Ein Wintermärchen (1844) Caput I Heinrich Heine Im traurigen Monat November war′s, Die Tage wurden trüber, Der Wind riß von den Bäumen das Laub, Da reist ich nach Deutschland hinüber. Und als ich an die Grenze kam, Da fühlt ich ein stärkeres Klopfen In meiner Brust, ich glaube sogar Die Augen begunnen zu tropfen. Und als ich die deutsche Sprache vernahm, Da ward mir seltsam zumute; Ich meinte nicht anders, als ob das Herz Recht angenehm verblute. Ein kleines Harfenmädchen sang. Sie sang mit wahrem Gefühle Und falscher Stimme, doch ward ich sehr Gerühret von ihrem Spiele. Sie sang von Liebe und Liebesgram, Aufopfrung und Wiederfinden Dort oben, in jener besseren Welt, Wo alle Leiden schwinden. Sie sang vom irdischen Jammertal, Von Freuden, die bald zerronnen, Vom Jenseits, wo die Seele schwelgt Verklärt in ew′gen Wonnen. Sie sang das alte Entsagungslied, Das Eiapopeia vom Himmel, Womit man einlullt, wenn es greint, Das Volk, den großen Lümmel. Ich kenne die Weise, ich kenne den Text, Ich kenn auch die Herren Verfasser; Ich weiß, sie tranken heimlich Wein Und predigten öffentlich Wasser. Ein neues Lied, ein besseres Lied, O Freunde, will ich euch dichten! Wir wollen hier auf Erden schon Das Himmelreich errichten. Wir wollen auf Erden glücklich sein, Und wollen nicht mehr darben; Verschlemmen soll nicht der faule Bauch, Was fleißige Hände erwarben. Es wächst hienieden Brot genug Für alle Menschenkinder, Auch Rosen und Myrten, Schönheit und Lust, Und Zuckererbsen nicht minder. Ja, Zuckererbsen für jedermann, Sobald die Schoten platzen! Den Himmel überlassen wir Den Engeln und den Spatzen. Und wachsen uns Flügel nach dem Tod, So wollen wir euch besuchen Dort oben, und wir, wir essen mit euch Die seligsten Torten und Kuchen. Ein neues Lied, ein besseres Lied! Es klingt wie Flöten und Geigen! Das Miserere ist vorbei, Die Sterbeglocken schweigen. Die Jungfer Europa ist verlobt Mit dem schönen Geniusse Der Freiheit, sie liegen einander im Arm, Sie schwelgen im ersten Kusse. Und fehlt der Pfaffensegen dabei, Die Ehe wird gültig nicht minder – Es lebe Bräutigam und Braut, Und ihre zukünftigen Kinder! Ein Hochzeitkarmen ist mein Lied, Das bessere, das neue! In meiner Seele gehen auf Die Sterne der höchsten Weihe – Begeisterte Sterne, sie lodern wild, Zerfließen in Flammenbächen – Ich fühle mich wunderbar erstarkt, Ich könnte Eichen zerbrechen! Seit ich auf deutsche Erde trat, Durchströmen mich Zaubersäfte – Der Riese hat wieder die Mutter berührt, Und es wuchsen ihm neu die Kräfte. | Nước Đức. Chuyện cổ tích mùa đông (1844) Chương I Heinrich Heine Tháng Mười Một không gian buồn chán, Bầu trời càng mờ đục từng ngày, Tàn cây tuôn lá theo gió cuốn, Ta trở về nước Đức lúc này. Và khi chân bước qua biên giới, Nghe đập dồn trong ngực bời bời Thậm chí còn phát sinh niệm khởi Tưởng chừng như nước mắt chớm rơi. Và khi tai vừa nghe tiếng Đức, Chợt rộn lên cảm giác lạ thường; Chẳng nghĩ gì khác trong tâm thức Tưởng tim cạn máu khá an nhàn. Cô bé chơi hạc cầm ca hát. Với bao nhiêu cảm xúc chân thành Âm điệu sai, nhưng ta dào dạt Bồi hồi sau màn diễn qua nhanh. Bé hát về tình yêu, đau xót, Hy sinh rồi tìm lại được nhau Trên cao đó, thế giới luôn tươi tốt, Nơi tan dần hết mọi thương đau. Bé hát về trần gian bể khổ, Về hân hoan sẽ sớm lụi tàn, Về thế giới bên kia, nơi linh hồn lạc thú Rạng rỡ trong niềm vui vĩnh hằng. Bé hát bài ca từ bỏ*) cũ, Trên thiên đàng là bài hát ru con, Khi họ kêu than, bài ca ru ngủ, Họ, là quần chúng, đám ngu dân. Tôi biết cách thức, luôn bài viết, Cũng biết luôn các vị soạn bài; Họ ngầm nốc rượu vang, tôi biết Nhưng giảng rao là nước công khai. Một bài thơ mới, bài tốt hơn thật, Tôi muốn làm thơ tặng, hỡi bạn thân! Chúng ta muốn ngay trên trái đất Cùng chung xây vương quốc thiên thần. Chúng ta muốn yên vui trên trần thế, Không muốn nữa khổ đau bần hàn; Cái bụng lười biếng càng không thể, Hưởng món mà tay làmsiêng năng. Cõi đời này bánh mì mọc đủ Cho mọi con người ở thế gian, Cả hoa hồng, sim, thẩm mỹ, lạc thú, Và cũng không ít đậu Hà Lan. Vâng, đậu Hà Lan cho đồng loại, Ngay sau khi lớp vỏ nở toang! Cõi thiên đàng chúng ta nhường lại Cho chim sẻ và các thiên thần. Và sau khi chết chúng ta mọc cánh, Lên thăm các bạn trên cõi vãng sanh Ở trên đó, ta cùng ăn đủ bánh Bánh kem và bánh nướng thiện lành. Một bài hát mới, hay nổi trội! Nghe chừng như tiếng sáo vĩ cầm! Đã qua rồi thánh ca sám hối, Hồi chuông báo tử đã lặng câm. Cô gái trẻ Âu châu đính ước Với mỹ nam Genius**) Tự do Cả hai ôm chặt không rời bước, Mê đắm trong nụ hôn lần đầu. Tuy là thiếu phép lành linh mục, Hôn nhân vẫn hợp thức lâu dài – Chúc chú rể cô dâu vạn phúc, Cùng đàn con nhỏ trong tương lai! Thơ ca lễ cưới là bài hát, Bài hát hay, bài hát mới hơn! Trong hồn ta vươn lên bát ngát Những ngôi sao trong lễ hiến dâng – Ngôi sao hứng khởi, bùng cháy hoang dại, Lan ra trong suối lửa chảy xuôi – Ta cảm thêm sức mạnh thần bí, Bao cây sồi ta vặn gãy như chơi! Từ khi đặt chân lên đất Đức, Nước phép thần luân chuyển trong ta – Người khổng lồ, đất mẹ chạm bước, Được thêm nguồn lực mới thăng hoa. Phan Kim Hổ dịch 27.10.2021 |
*) Bài ca từ bỏ/Entsagungslied: từ bỏ lạc thú trên đời (trên thiên đàng đời sống tốt hơn,
trên trái đất con người nên sống đạo, đạm bạc và nhẫn nhục.)
**) Thần Genius: thần hộ mệnh của đàn ông trong tôn giáo Roma
***
Bài số 2: Mẹ ơi (An meine Mutter)
Thể thơ xô-nê, gồm 2 phần, mỗi phần 4 phân khúc (4, 4, 3, 3)
Mỗi câu thơ có 11 âm tiết trong bản gốc tiếng Đức (tiếng Việt 8 âm tiết)
Mô hình vần bản tiếng Đức: abba abba ccc ddd (phần 1) và abba abba ccdeed (phần 2)
Ghi chú:
Thơ xô-nê (Sonett) là một thể thơ xuất hiện trong thế kỷ thứ 13 ở Ý rồi dần lan truyền cả châu Âu từ thế kỷ thứ 16. Về niêm luật, thể thơ này có thể tạm so sánh với thơ Đường ở Việt Nam, Trung Quốc, với yêu cầu chặt chẽ về số câu thơ, số âm tiết trong mỗi câu và quy tắc gieo vần.
Một bài thơ xô-nê nhất thiết phải có 14 câu, được chia thành 4 phân khúc, hai phân khúc đầu có bốn câu mỗi phân khúc (Quartett) và hai phân khúc sau có ba câu mỗi phân khúc (Terzett) (4, 4, 3, 3). Mỗi câu thơ có đúng 11 âm tiết, cách gieo vần ở cuối mỗi câu được quy định rõ ràng như sau: abba abba cbc cbc.
Theo thời gian, thơ xô-nê đã có các biến thể khác nhau: số âm tiết trong mỗi câu có thể tăng lên (12, 13 … thay vì 11), vần gieo trong hai phân khúc cuối có thể thay đổi:ccc ddd hoặc ccd eed v.v…
Bên Anh, nhà thơ William Shakespeare và các nhà thơ khác sáng tác những bài xô-nê 14 câu cũng được chia thành 4 phân khúc, nhưng số câu thơ trong hai phân khúc sau có thay đổi: 4, 4, 4, 2 thay vì 4, 4, 3, 3. Cách gieo vần cũng biến đổi. Biến thể này được gọi là thể thơ xô-nê Anh (hoặc xô-nê Shakespeare).
| An meine Mutter (1827) Heinrich Heine 1 Ich bin′s gewohnt, den Kopf recht hoch zu tragen, Mein Sinn ist auch ein bißchen starr und zähe; Wenn selbst der König mir ins Antlitz sähe, Ich würde nicht die Augen niederschlagen. Doch, liebe Mutter, offen will ich′s sagen: Wie mächtig auch mein stolzer Mut sich blähe, In deiner selig süßen, trauten Nähe Ergreift mich oft ein demutvolles Zagen. Ist es dein Geist, der heimlich mich bezwinget, Dein hoher Geist, der alles kühn durchdringet, Und blitzend sich zum Himmelslichte schwinget? Quält mich Erinnerung, daß ich verübet So manche Tat, die dir das Herz betrübet? Das schöne Herz, das mich so sehr geliebet? 2 Im tollen Wahn hatt ich dich einst verlassen, Ich wollte gehn die ganze Welt zu Ende, Und wollte sehn, ob ich die Liebe fände, Um liebevoll die Liebe zu umfassen. Die Liebe suchte ich auf allen Gassen, Vor jeder Türe streckt ich aus die Hände, Und bettelte um g′ringe Liebesspende – Doch lachend gab man mir nur kaltes Hassen. Und immer irrte ich nach Liebe, immer Nach Liebe, doch die Liebe fand ich nimmer, Und kehrte um nach Hause, krank und trübe. Doch da bist du entgegen mir gekommen, Und ach! was da in deinem Aug′ geschwommen, Das war die süße, langgesuchte Liebe. | Mẹ ơi (1827) Heinrich Heine 1 Con đã quen ngẩng cao đầu ngạo nghễ, Tính cũng hơi ngang bướng lẫn chai lì; Nếu chính nhà vua tận mặt nhìn kỹ, Con cũng chẳng buồn chớp mắt tránh đi. Nhưng, mẹ yêu, trải lòng con muốn kể: Cả khi tự hào hừng hực dũng khí, Bên mẹ thánh thiện ngọt ngào, yêu quý Con thường nhũn người khép nép vụng về. Có phải tinh thần mẹ ngầm chiến thắng, Tinh thần cao cả, mọi thứ vượt phăng, Và lóe lên trời thành ánh hào quang? Ký ức con dày vò, vì làm điều xấu Nhiều hành vi, khiến tim mẹ đau đáu? Trái tim tuyệt vời, yêu con xiết bao? 2 Con từng rời mẹ trong cơn hoang tưởng, Muốn ngao du trọn cả thế gian này, Và muốn xem, liệu tình yêu tìm thấy, Để tình yêu con ôm trọn thân thương. Con tìm tình yêu trên mọi ngõ hướng, Trước mỗi cửa nhà, con chìa đôi tay, Và muốn ăn mày tình yêu một mảy – Nhưng họ chỉ cười ghẻ lạnh khinh thường. Và lưu lạc theo tình yêu, mãi mãi Theo tình yêu, chẳng bao giờ tìm thấy, Con trở về nhà, bệnh hoạn, bi ai. Nhưng rồi mẹ ngược hướng tiến đến gần, Ô kìa! cái trong mắt mẹ ngân ngấn, Là tình yêu ngọt, tìm mãi bao lần. Phan Kim Hổ dịch 30.10.2021 |
Mô hình vần: Vần chéo abab trong mỗi phân khúc 4 câu thơ
| Auf Flügeln des Gesanges (1822) Heinrich Heine Auf Flügeln des Gesanges, Herzliebchen, trag ich dich fort, Fort nach den Fluren des Ganges, Dort weiß ich den schönsten Ort. Dort liegt ein rotblühender Garten Im stillen Mondenschein; Die Lotosblumen erwarten Ihr trautes Schwesterlein. Die Veilchen kichern und kosen, Und schaun nach den Sternen empor; Heimlich erzählen die Rosen Sich duftende Märchen ins Ohr. Es hüpfen herbei und lauschen Die frommen, klugen Gazelln; Und in der Ferne rauschen Des heiligen Stromes Welln. Dort wollen wir niedersinken Unter dem Palmenbaum, Und Liebe und Ruhe trinken, Und träumen seligen Traum. | Lời ca chấp cánh (1822) Heinrich Heine Trên đôi cánh của lời ca hát, Em yêu, anh đưa em xa rời, Đến sông Hằng thăm nhiều vùng đất, Nơi anh biết chỗ đẹp nhất đời. Nơi vườn hoa đỏ nở phơi phới Trải dưới ánh trăng yên bình; Những đóa sen đang còn chờ đợi Em gái nhỏ thân yêu chân tình. Hoa tím khúc khích cười trìu mến, Và cùng nhìn lên hướng các vì sao; Hoa hồng rỉ vào tai nhau thầm kín Nhiều chuyện cổ tích thơm ngọt ngào. Bầy linh dương thông minh, thuần tánh Nhảy đến và nghe lỏm chuyện riêng; Và xa xa nghe tiếng róc rách Sóng của dòng sông linh thiêng. Nơi chúng ta muốn ngả người xuống Bên dưới bóng cây cọ dừa, Và uống tình yêu và yên lắng, Và mơ giấc mơ say sưa. Phan Kim Hổ dịch 05.12.2021 |
./.









