12 thg 6, 2025

Quan Bố Chánh Trần Trung Tiên là phước thần của Trà Vinh - Nguyễn Gia Việt


 Có câu thơ như ca dao:

“Trà Vinh có bún nước lèo
Chùa Ông Mẹk, ao đào Bà Om
Có Chùa thờ vía Quan Công.
Có đình Long Đức thờ Trần Trung Tiên.”
Bố Chánh Trần Trung Tiên (1801 - 1841) là một phước thần của Trà Vinh xưa, ngài được phối thờ trong đình Long Đức.
Trà Vinh từ tiếng Khmer Préah Trapéang nghĩa là tìm được tượng Phật bằng đá trong ao nước. Người Việt phiên âm ra thành Trà Văn, Trà Vang hoặc Trà Vinh.
Ngày xửa ngày xưa ở vùng này có một cái ao tên Préah Trapéang. Có một ông hoàng Chân Lạp chạy nạn, đến đây ghe bị chìm, nhờ Phật độ nên thoát hiểm. Ông hoàng lập chùa thờ Phật để tạ ơn, trong chùa có một cái ao lớn tên Préah Trapéang do tìm được tượng Phật trong ao khi dựng chùa.
Trà Vinh là xứ ở cuối cù lao có ba mặt giáp cửa sông và biển, xứ này có hàng trăm gò, giồng cát nhô lên. Trà Vinh và Srok Khl’eang -Sốc Trăng là hai nơi có gò giồng nên người Khmer chọn định cư lâu đời.
Vùng này trong hành chánh của chúa Nguyễn từ phủ Ba Thắc tới phủ Trà Vang rồi huyện Vĩnh Bình, huyện Trà Vinh.
Trà-Vinh là phủ Lạc Hóa thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Trà Vinh là vùng của phum sốc của người Khmer, thời vua Gia Long thì ông cho tự trị. Song qua thời Minh Mạng thì vẫn mang tiếng tự trị, song vua Minh Mạng lại áp dụng chánh sách "nhứt thị đồng nhơn".
一視同仁天子徳 (Nhứt thị đồng nhơn thiên tử đức).
Đồng nhơn văn (同人文) tức là đồng hóa để cùng phong tục như dân Việt. Vua Minh Mạng ép người Khmer đổi qua họ Việt, người Khmer phải học chữ Hán Việt, tổ chức lại phum sốc Khmer thành làng xã kiểu Việt.
Các họ của người Khơ Me là: Bàn, Binh, Châu, Danh, Điêu, Lâm,Sơn Hứa, Kỷ, Liêu, Lộc, Lục, Lu, Mai, Neang, Panth, Pem, Sơn, Tăng, Tô, Từ, Thạch, Thị , Thuấn, Trà, U...
Tất nhiên là dân Khmer phản ứng, đã có rất nhiều cuộc nổi dậy nổ ra.
Năm 1841 thời Thiệu Trị một người Khmer tên Lâm Sâm dùng bùa ngãi kéo theo 8.000 người mang võ khí là đao mác, chà gạc, mã tấu đánh phủ lỵ Lạc Hóa chiếm quận lỵ Trà Vinh và làm chủ 30 km đất từ Trà Vinh tới Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Điêu, Bắc Trang.
Cuộc nổi dậy của Lâm Sâm kéo dài từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 10 năm 1841. Đến tháng 11/1841, tướng Nguyễn Tấn Lâm, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ mới trừ hết loạn quân bắt được Lâm Sâm.
Một trận đụng độ dữ dội giữa quân phản loạn và quân trào đình, kết quả quan bố chánh Vĩnh Long Trần Trung Tiên (Trần Hoài) và Tri huyện Trà Vinh Hoàng Hữu Quan tử trận trong đêm 17 rạng ngày 18 tháng 3 âm lịch, năm Tân Sửu- 1841 tại Ô Đùng.
"Miếu linh tại xứ Ô Đùng
Thờ quan bố chánh tử trung thành thần
Tướng Miên khi ấy lọan trần
Sa Som khởi nghịch dậy rân một miền
Đương hồi Thiệu Trị Tam Niên
Trần Hoài bố chánh ngài liền xuất binh
Hiệp cùng tri huyện Trà Vinh
Người nguyên khoa mục tên Huỳnh Hữu Quan."
Bố Chánh là một chức quan thời Nguyễn. Quan chủ tỉnh là Tuần Phủ, có các quan Án Sát, Bố Chánh, Lãnh Binh ở dưới phụ tá lo hành chánh và quân sự.
Thời Gia Long có chức Tổng Trấn, Hiệp Trấn. Vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, đặt Tổng Đốc đứng đầu một tỉnh lớn, Tuần phủ đứng đầu một tỉnh nhỏ. Dưới quan Tổng Đốc, Tuần Phủ có quan Bố Chánh coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng, Án Sát coi việc hình luật, Lãnh Binh chỉ huy quân đội cấp tỉnh.
Quan bố chánh Vĩnh Long Trần Trung Tiên là vậy! Ông này có duyên nợ với Trà Vinh. Ông đào con kinh dẫn nước sông Hậu vào rửa mặn đồng Láng Sắc gần biển năm 1837 – 1838 mà sau này mang tên là Kinh Quan Chánh Bố.
Sau khi chết Bố Chánh Trần Trung Tiên được vua Nguyễn sắc phong thần cho đất Trà Vinh.
Quan Bố Chánh Trần Trung Tiên có một người con trai là
Trần Xuân Hoà.
Trần Xuân Hoà đậu cử nhơn nhưng bị bịnh phong quéo tay chưn làm 3 phần thân thể bất toại nên làm quan rất ngắn. Vậy mà năm 1861-1862 khi Pháp xâm lăng Nam Kỳ ông dù được cõng trên lưng cũng ra chiêu mộ quân, lâp căn cứ đánh Pháp hăng hái ở Cai Lậy, Cái Bè. Do thành tích này, ông được triều đình phong chức Binh bị quan thứ Vĩnh Tường, thưởng thụ hàm Thị độc học sĩ.
Tháng 1/1862 Trần Xuân Hoà bị Pháp bắt, ông cắn lưỡi tự sát. Tại Sài Gòn giờ còn đường Trần Xuân Hoà.
Trường trung học lớn nhứt và đầu tiên của Trà Vinh tên là Trần Trung Tiên.
TT Ngô Đình Diệm thấy chữ Trà Vinh (Trapeang) là do tiếng Khmer mà ra nên ông muốn Việt hóa, sắc lịnh 143-NV của Tổng Thống ngày 22 tháng 10 năm 1956 đổi tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình và tỉnh lị là Phú Vinh.
"Trà Vinh, Trà Cú, Trà Kha
Trà Cuôn, Trà Tro, Mặc Dồn
Chầm Ca, Chăng Mật, Tầm Tôn
Sâm Bua, Sóc Thác, Ô Đùng, Tầm Phương
Ô Trao, Ô Chít, Quí Nong
Ô Răng, Ô Chát, Cà Tum, Lò Ngò
Chong Văn, Chong Bát, Chong So
Phiêu, Trà Kháo, Bắc-Sa-Ma, Nô Rè
Bà Dam, Trà Tót, Tha Ta
Vàm Ray, Cà Tóc, Kỳ La, Thị Ròn
Thăm Đua, Ba Tục, Cà Hom
La Bang, Ba Sát, Xà Dần, Sóc Len
Hàm Giang, Ba Cụm, Nô Men
Người đi bỏ lại mình ên em chờ."

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét