Các bạn trẻ nên đọc để hiểu nguồn gốc tiếng Việt. Các ông bà lớn tuổi đọc để nhớ cho vui.
CHỮ VIỆT GỐC PHÁP
Nguyễn Hữu Phước
Trần Văn Giang ghi lại
Chữ Việt gốc Pháp trong vấn đề ăn uống
Ăn phở uống cà phê
Ăn uống là nhu cầu căn bản đầu tiên của tất cả các dân tộc. Do đó khi
giao tiếp với người Pháp, những chữ liên quan đến thực phẩm được dùng
đến nhiều. Trước hết có chữ “cà phê”. Già trẻ, từ nam tới bắc, từ đông
sang tây (quốc nội hay hải ngoại) đều biết từ nầy. Nó do chữ café của
Pháp. Cây cà phê đã góp một phần quan trọng vào đời sống của dân Việt từ
thời Pháp thuộc cho đến ngày nay. Cách đây ba, bốn năm, VN đã đứng đầu
thế giới trong việc sản xuất và xuất cảng cà phê loại “Robusta”.
Liên quan tới cà phê, có “cà phê phin” (filtre: lọc). Cà phê phin có
một độ còn có biệt danh “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Đó là sự “tả chân”
về cái phin cà phê của các bộ đội ngoài Bắc vào Nam. Phải công nhận một
điều là khi trời lạnh, vào quán gọi một ly cà phê sữa nóng, ngồi nhìn
cái nồi thảnh thơi ngồi trên cái cốc, nhỏ từng giọt cà phê xuống cái ly
(cái cốc), là một sự chờ đợi lý thú. Khi nhắp chút cà phê sữa từng hớp
nhỏ, hưởng cái vị đắng-ngọt “đã” cái lưỡi không thể tả được. Nhưng chưa
hết. Hãy gọi một bát phở tái, chín, nạm, gân, sách nữa.
Có
người nói với tôi chữ “phở” có nguồn gốc Lang sa đấy. Một cựu thuyền
trưởng thương thuyền, đã có thời làm việc cho Pháp và sau nầy cho VNCH,
đã kể cho tôi nghe rằng thời trước 1954, ông ta chở tiếp liệu cho quân
đội Pháp. Thuyền Phó và nhiều thủy thủ ở tàu của ông là dân Pháp chính
cống. Khi tàu cập bến ở Hải Phòng, vào mùa lạnh, họ thường nấu một món
"súp” (soupe) súp thịt bò và sau đó họ để thêm một loại mì sợi (loại
giống như spaghetti) đã luộc chín vào súp trước khi ăn. Muốn giữ cho món
súp được nóng suốt bữa ăn, họ để súp luôn trên lò lửa. Họ gọi món đó là
“boeuf au feu”: (chữ “feu” đọc là “phơ”) tức là “bò nấu trên lửa”.
Các
thủy thủ người Việt không để “spaghetti” vào mà lại để hủ tiếu vào và
gọi món đó là “boeuf au feu” VN. Chữ nầy dài quá nên được gọi tắt là món
“au feu” và sau đó chỉ còn có chữ “feu”. Rồi chữ “phơ” là lửa ấy trở
thành chữ phở (có dấu hỏi) lúc nào (2), ông ta không biết. Món “soupe au
feu” nầy trở thành thông dụng cho dân chúng miền Hải Phòng trước, và
sau đó cho cả miền Bắc. Sau 1954, khi có nhiều đồng bào di cư vào Nam
sau cuộc chia đôi đất nước năm 1954, món “phở” mới thành món ăn phổ biến
trong Nam. Trước đó dân miền Nam dùng hủ tiếu thịt heo nấu theo kiểu
Tàu.
Một ông bạn già khác, chẳng quen biết gì ông thuyền
trưởng trên, lại nói với tôi rằng người Pháp có nhiều loại súp khác
nhau, họ thường ăn súp nóng khi trời lạnh. Họ giữ cho súp luôn nóng bằng
cách đựng súp trong cái “pot” tức cái nồi và để ninh trên lửa. Họ gọi
nó là “pot au feu” và chữ phở do từ feu mà ra. Tóm lại, “boeuf au feu”
hay "pot au feu", cả hai ông đều cho một kết luận giống nhau về nguồn
gốc của chữ “phở”. Quý vị có biết thêm giả thuyết nào nữa không ? (3)
Điểm tâm : Dăm bông, ba tê, ốp la
Điểm
tâm, có bánh mì, trứng gà, “dăm bông” (jambon) : thịt heo hun khói và
“ba tê” (pâtée) tức thịt hay gan xay, đã làm chín và ướp mùi vị đặc
biệt. Có nhiều cách ăn hột gà. Bình thường là luộc chín. Có thể ăn hột
gà “la cót” (oeufs à la coque) : chỉ thả vào trong nước sôi độ vài phút,
bên trong chưa chín hẳn. Ngoài ra còn có thể chiên hột gà bằng cách
khuấy trộn chung lòng trắng và đỏ, ta có hột gà “ô mơ lết” (omelette) ;
hoặc chiên nguyên tròng trắng và tròng đỏ để có hột gà “ốp la” (oeufs
sur plat).
Cơm trưa và tối với súp, xà lách, phi lê, cỏ nhác
Bữa
cơm trưa hay tối có nhiều thứ canh hay súp. Súp bò, gà, hay súp rau
cải. Súp rau cải còn có tên gốc Pháp là súp “lê gim” (légume). Tiếng
bình dân của miến Nam gọi nước súp là “nước lèo”. Súp hành để lạnh nổi
tiếng của người Pháp mà các nhà hàng tây nào cũng có bán là “consommé
froid” : thức uống lạnh. Sau bữa ăn chánh, thực khách thường dùng cà phê
đen trong một cái “tách” (tasse) thật nhỏ. Chữ “tách” thông dụng cho
đến ngày nay. Đã dọn ăn thì phải có muỗng và đũa. Muỗng nhỏ gọi là muỗng
cà phê và muỗng lớn gọi là muỗng súp. Có nơi ngày xưa còn gọi muỗng là
cái “cùi dìa” (cuillère).
Trong bữa ăn, ngoài “súp” ra, còn
có “xà lách” (salade) tức rau cải. Xà lách còn là tên của một loại cải.
Món salade “hằm bà lằng” nhiều loại rau cải đôi khi có cả đậu hủ, thịt
gà, hay thịt heo hun khói hay “dăm bông”. Cây cải xà lách Đàlạt nổi
tiếng ngon và được ưa dùng ở Sàigòn (dân Mỹ gọi nó là butter lettuce).
Một loại xà lách khác rất được ưa thích để trộn với dầu dấm là cải “xà
lách xon” (cresson). Để thịt bò xào tái lên đĩa xà lách son dầu dấm là
có một món nhậu vừa ngon vừa bổ. Thịt bò phải lựa loại “phi lê mi nhông”
(filet mignon) mới đúng điệu vì nó rất mềm.
Cho đúng tiêu
chuẩn ngon, phải uống “cỏ nhác be ri ê” hay “mạc ten be ri ê” (rượu hiệu
Cognac hay Martel và nước suối Perrier) trong một cái ly lớn. Dân nhậu
gọi ly rượu ấy là “công xôm ma xông” (consommation). Nếu không có “be ri
ê,” thì dùng một loại nước suối có bọt hay nước soda cũng được. Một số
người chỉ dùng nước lạnh pha với cỏ nhác hay mạt ten và nước đá. Họ cho
rằng pha với các loại nước có bọt làm mất nguyên vị của rượu đi. Có
người uống rượu mạnh không pha gì cả, thường gọi là “uống xếch” (boire
sec).
Phó mách, bơ, và rượu vang
Sau bữa cơm
tối và các câu chuyện hàn huyên, người ta còn ăn “phó mách” (fromage) và
uống rượu “vang” (vin), còn gọi nôm na là rượu chát. Trong thức ăn kiểu
tây có nhiều món nấu rượu vang như gà, vịt, lưỡi heo, thỏ.
Phó
mách và “bơ” (beurre) là sản phẩm từ sữa. Dân Pháp, Hoa Kỳ đều khoái
hai thứ nầy. Có vô số loại phó mách khác nhau. Trong số đó có vài loại
có mùi nồng và nếu không biết ăn thì đành xin lỗi vì nó hôi không thể
tả. Nhưng dân sành ăn thì lại cho là nó ngon khỏi chê nhứt là dùng làm
mồi để uống rượu vang. Đa số người Việt chỉ thích loại phó mách hiệu
“con bò cười” (“La vache qui rit”) hay có tên HK là “the laughing cow”.
Vào các siêu thị VN ở HK tìm mua phó mách, chỉ có thể tìm thấy loại nầy
mà thôi.
Sâm banh, la ve
Dân Việt ta khi xưa,
lúc Pháp mới cầm quyền ở VN ba bốn chục năm, có một số làm công chức cho
Pháp hay những người giàu có mới ăn phó mách, uống sữa bò tươi và ăn
bánh mì trét “bơ” Bretel, tên một loại bơ mặn nổi tiếng của Pháp. Ngoài
ra còn có một chỉ số khác để chỉ nhà giàu xưa ở VN là việc dùng rượu
“sâm banh” (champagne) trong những tiệc vui. Sâm banh là một loại rượu
vang có bọt làm ra từ những trái nho ngon của vùng đất tên là Champagne,
ở miền đông bắc nước Pháp. Ngày nay thì sâm banh sản xuất ở California,
HK, tràn ngập thị trường quốc tế và là một loại rượu coi là “bình dân”
vì quá phổ biến trong mọi giới, mặc dù có vài loại rượu sâm banh giá khá
cao. Tú Xương có viết: “Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” để chỉ những
nhà giàu thời xưa như đã nói.
Ngoài rượu vang và sâm banh
ra, người bình dân thích dùng “la ve” (la bière), một loại rượu có bọt
với nồng độ rượu rất nhẹ (chỉ khoản 5% ; trong lúc ấy rượu vang kể cả
sâm banh có nồng độ trung bình từ 11% đến 13.5%, và rượu mạnh có 40% trở
lên). La ve còn được gọi là “bia” và do đó, có chữ “bia ôm” mà hầu hết
chúng ta đều biết.
Bom, bôm, và bơm
Trong các
loại tráng miệng sau bữa cơm, chúng ta có thể dùng trái “bôm” (pomme)
hay còn gọi là trái táo tây. Gần đây có một loại bôm nổi tiếng của Nhật
tên Fuji. California đã sản xuất tràn ngập loại bôm nầy.
Tiện
đây xin cho nói luôn kẻo quên, trong tiếng Việt có đến ba chữ Việt gốc
Pháp có âm đọc gần như nhau : “bôm,” “bơm,” và “bom”.
“Bơm”
(pomper) là động từ chỉ động tác đem không khí, hay một chất lỏng vào
một chỗ nào đó như bơm bánh xe, bơm nước từ giếng lên thùng chứa nước,
bơm mỡ bò vào bạt đạn xe. Vật dùng để bơm, gọi là cái bơm, ống bơm hoặc
máy “bơm” (pompe).
Chữ “bom” (bombe) chỉ một loại vũ khí gây
nổ có tác dụng phá hoại và giết chóc. Ném bom, dội bom (bombarder) là
động từ chỉ việc dùng phi cơ thả bom xuống từ trên không.
Chữ Việt gốc Pháp trong giao thiệp và ăn mặc
Chào hỏi
Các
ông tây “bà đầm” (madame) khi gặp nhau, chào nhau bằng cách “bông rua”
hoặc “bủa sua” (bonjour : bắt tay chào nhau). Khi từ giã nhau thì nói “ô
rờ voa”(au revoir : sẽ gặp lại) hay “a-dơ” (adieu : vĩnh biệt). Khi cần
thoái thác hay xin lỗi điều chi thì bắt đầu bằng từ “bạt đông” (pardon :
xin lỗi). Lại nhớ có câu thơ rằng :
Bạt đông anh chớ pha sê (1) Ắt tăn moa rắc công tê tú xà
(1)
(fâcher: giận ; attendre : đợi ; moi : tôi ; raconter : kể ; tout ca :
tức thời ; phụ âm c trong lời ca của tiếng Pháp, còn thiếu cái râu bên
dưới).
Lẽ dĩ nhiên không đúng văn phạm Pháp, nhưng nghĩa thì
rất rõ ràng và lại đúng vần thơ lục bát, mặc dầu là thơ ba rọi. Chữ
“mông sừa” (monsieur : ông) và “ma đàm” (madame: bà) dùng trước tên họ
của ông hoặc bà nào đó để tỏ sự kính trọng. Khi những ông bạn quen thân
gặp nhau, người nầy gọi người kia là toa (toi : anh hay mầy) và xưng là
“moa, mỏa” (moi : tôi hay tao). Cho đến ngày nay, những người VN lớn
tuổi vẫn còn dùng lối xưng hô nầy. Dân ta dùng từ “bà đầm tôi” để chỉ
người vợ của mình. Ngày nay từ “bà xã” thông dụng hơn.
Ăn mặc
Khi
dân Việt dùng kiểu áo tây phương trong việc ăn mặc, một số các cô, bà
mặc “áo đầm” tức loại áo và váy chung nhau. Đàn ông thì mặc “sơ mi”
(chemise) và quần dài (quần Tây) như chúng ta mặc bây giờ. Nói đến sơ
mi, ông Lãng Nhân (2) có nhắc đến những chữ Việt hóa trong những bài thơ
mà ông xếp chúng vào loại văn thơ Việt Nam hóa trong bài lục bát sau
đây :
Lạnh lùng một mảnh sơ mi
Li-ve trằn trọc, lơ li một mình,
Loăng-tanh ai có thấu tình
Em-mê đến nỗi thân mình biểng-pan
(chemise : áo ; l’hiver : mùa đông ; le lit : cái giường ; lointain : xa ; aimer : yêu, thương ; bien pâle : xanh mét).
Nếu
các ông mặc áo vết (veste) hay áo “vết tông” (veston) bên ngoài áo sơ
mi, cùng loại vải, và cùng màu với quần thì chúng ta gọi y phục đó là bộ
“côm bờ lê” hay “côm lê” (complet : đủ bộ, hay nguyên bộ). Ngày xưa,
khoảng trước 1954, người ta còn gọi cái áo veston là áo “bành tô”
(paletot).
Các ông bà trong ngành y khoa như bác sĩ, y tá
thường mặc áo “bờ lu” (blouse) khi làm việc. Đó là chiếc áo mang tính
chất nghề nghiệp rất oai. Nhưng khi dạo chơi, người đàn ông có thể mặc
áo “u ve” (veston ouvert) ; trong lúc đó, đàn bà tân thời, cải cách (của
thời xa xưa đó) thích mặc áo thun Montaigut của đàn ông cũng thuộc loại
áo được các ông ưa thích.
Cả ông, bà khi đi đâu khỏi nhà,
đều có mang “bóp” (porte, porter : mang, đựng). Bóp cho các bà thì gọi
là “bóp đầm”. Bóp cho các ông có tên “bóp phơi” (porte feuille).
Trong thập niên 1950 tôi nhớ đám trẻ nhỏ chúng tôi thường hát nhái theo giọng bài ca “Dứt đường tơ” như sau :
Tóc em dài sao em không uốn?
Tốn bao nhiêu anh trả dùm cho,
Đây bóp phơi anh đầy “bộ lư”
(giấy bạc 100 đồng có hình bộ lư) .... Nàng ơi uốn đi... đừng lo.
Đàn
ông mặc côm lê phải mang “cà ra oách”, hay “cà vạt” (cravate : trang
sức bằng vải đeo trước ngực) mới đúng cách. Muốn cho thiên hạ biết có
tiền, nhứt là khi dẫn bạn gái đi “ban” (bal : dạ tiệc có khiêu vũ) trong
bóp phải đem theo nhiều giấy oảnh (vingt : hai mươi) tức giấy hai mươi
đồng ; và thêm vào còn có nhiều tờ giấy “xăng” (cent piastres : giấy
$100.00).
Trong lúc đó các bà các cô phải đeo “cà rá”
(carat) nạm hột xoàn. Thực ra carat là đơn vị đo lường kim cương. Nó là
sức nặng bằng 1/24 của một “gam” (gramme) vàng nguyên chất. Gam là một
phần 1000 của một “ki lô” (kilogramme). Vàng 18 là một hợp kim gồm có 18
phần vàng và sáu phần kim loại khác.
Cái cà vạt và cái cà
rá sống vượt thời gian. Ngày nay nó vẫn còn thông dụng cho cả hai phái,
chỉ thay đổi màu và phẩm chất tùy theo số lượng “anh hai” (tiếng lóng để
chỉ tiền).
Chữ Việt gốc Pháp trong giao thông
Ô tô, sớp phơ, gạt đờ co
Trước
hết có xe “ô tô” (automobile) hay “xe hơi”. Ở nhà lầu, đi xe ô tô là
biểu tượng của nhà giàu. Muốn tỏ ra sang trọng hay có uy quyền, người ta
mướn tài xế hay “sớp phơ” (chauffeur). Chữ nầy thông dụng ở miền Nam
hơn miền Bắc. Sau nầy, kể cả những thập niên cuối của thế kỷ 20 chữ tài
xế trở nên thông dụng cho cả VN. Nhiều ông làm chức vụ cao, hay quan
trọng, hoặc các người giàu còn có thêm một tài xế phụ. Thực sự người nầy
là “gạt đờ co” (garde du corps : cận vệ) ngồi phía trước, cạnh tài xế,
thường đeo kính đen trông rất oai vệ. HK gọi người nầy là “bô đi gạt”
(bodyguard). Ông “bô đi gạt” nổi tiếng là ông cận vệ của Tổng thống
Ford. Ông ta gạt (garde) hay đến nỗi ông ta cưới luôn con gái của tổng
thống. Ông cận vệ nầy trở thành “gạt đờ co” trăm năm của ái nữ Tổng
thống. Vậy ông nào có người làm công với chức vụ “gạt đờ co” thì nên...
coi chừng con gái mình và coi chừng luôn cả... phu nhân (nói đùa cho
vui, bỏ qua đi tám !).
Trở về với xe, ngoài xe nhỏ thường
gọi là xe du lịch, còn có xe “căm nhông” (camion) dùng để chuyên chở
hàng hóa. “Cam nhông” thứ thật to và chở thật nặng có tên là “boa lua”
(poids lourd). “Cam nhông nết” (camionette) là xe chở hàng hóa loại nhỏ,
giống xe “pick up” của ngày nay.
VN khi xưa và ngay cả ngày
nay, ít khi nhập cảng “căm nhông” nguyên chiếc. Họ chỉ mua cái sườn xe
thôi. Đến VN rồi họ đóng mới đóng thùng xe tùy theo nhu cầu : đóng thùng
vuông chung quanh để chở hàng, hoặc đóng thùng có cửa, có “băng” (banc :
ghế ngồi) để làm xe đò hay làm xe “ô tô buýt” (autobus) hay “xe buýt”.
Xe buýt rất thông dụng trong việc chuyên chở công cộng trong đô thành
hay các thị xã lớn. Xe chuyên chở hành khách đi các tỉnh lại gọi là xe
đò, trong khi Pháp hay HK lại gọi cả hai loại trên là xe buýt. Cũng
trong lãnh vực chuyên chở, chúng ta còn có xe lô hay xe “lô ca xông”
(location). Đó là những chiếc xe du lịch được dùng làm xe cho mướn hay
xe chuyên chở hành khách.
Xe đò : Ăn banh, lơ
Trên
mỗi chuyến xe đò, ngoài người “sớp phơ” ra còn có một hay hai người phụ
tá gọi là anh “lơ”. Những người nầy lo việc sắp xếp chỗ ngồi, kiểm soát
giấy đi xe (chữ “lơ” do nguyên ngữ “contrôleur” tức kiểm soát viên). Ở
VN, những anh nầy còn phụ trách nhiều việc khác như đưa hành lý lên và
xuống xe cho khách, giao thiệp với cảnh sát công lộ khi xe bị chận vì
một lý do gì đó, hoặc phụ với tài xế sửa xe khi xe bị “ăn banh” (en
panne) tức là khi xe bị hư. Nhiều anh lơ rất có tài trong việc sửa xe :
từ việc nhỏ như vặn chặt một vài con “bù lon” (boulon) đến việc lớn như
thay cả cái “ăm vô da” (embrayage : bộ phận trong hộp số để chuyển những
chuyển động của máy xe sang cái trục làm xe chạy trong hệ thống sang số
bằng tay).
Có người hỏi tại sao họ chịu khó làm việc như
vậy (mà không đòi chủ xe trả tiền công) ? Số là đa số chủ xe chỉ thâu
tiền bán vé ở các trạm xe chánh mà thôi. Còn việc đón khách lên xuống
dọc đường và tiền kiếm thêm nầy thì tài xế và lơ chia nhau. Các chủ xe
đều biết chuyện nầy, nhưng vì không thể nào kiểm soát được, nên thà cho
trước cái quyền lợi đó cho tài xế và lơ. Chủ xe được cái lợi là khỏi lo
việc kéo xe về nằm “ga ra” (garage : chỗ sửa xe) vừa tốn nhiều tiền vừa
mất thì giờ (tức mất tiền). Để cho tài xế và lơ tự sửa xe, chủ chỉ phải
bồi hoàn chi phí về “bạt” (parts : các bộ phận rời). Xe được sửa mau, cả
chủ và người làm công đều có lợi. Một hợp tác hỗ tương không văn kiện
nhưng lại rất hiệu quả trong giới xe đò.
Xăng và lốp xe
Muốn
chạy xe phải có “xăng” (essence). Ngày nay, từ nầy còn thông dụng ở mọi
nơi. Xe mà hết xăng thì trở thành... sắt cục. Xưa kia nếu quên đổ xăng,
để xe hết xăng dọc đường, không chạy được nữa, thì gọi là “ăn banh xéc”
(panne sèche : hư xe khô, có nghĩa hết xăng). Chỉ còn có những lão già
“vang bóng một thời trong việc sử dụng Pháp ngữ” dùng từ nầy. Từ “ga
xăng” sẽ nói đến ở một đoạn sau.
Chữ “xăng” còn được dùng
trong một nghĩa khác. Khi trẻ con đói bụng, mặt nhăn nhó, người ta nói
em bé “thiếu xăng” hay em bé cần đổ xăng thêm.
Dân Việt có
tài chế biến trong việc dùng từ ngữ. Thí dụ việc dùng chữ “quá giang”
khi chúng ta đi nhờ xe của một người khác. Nguyên ngữ “quá giang” có
nghĩa “qua sông” bằng cách đi nhờ đò, hay ghe của người khác. Quá giang
cũng dùng đến khi đi nhờ từ nơi nầy đến nơi khác bằng thuyền. Không hiểu
tự bao giờ, chữ “quá giang” được dùng cho việc đi nhờ xe. Ngày nay thì
quá giang chỉ có nghĩa là đi nhờ thôi, thuyền hay xe gì cũng được. Nhưng
nếu quá giang thường quá thì nên đóng góp tiền xăng cho vui cả hai bên.
Quan trọng không kém xăng là “lốp xe” (enveloppe) : vỏ xe,
phần bọc bên ngoài cái “ruột xe” ; sau nầy vỏ xe chỉ có vỏ mà không có
ruột . HK gọi là “tubeless”. Khi bánh xe xẹp, phải bôm thêm hơi vào
ngang qua cái “súp báp” (soupape : vật dụng dùng để cho không khí đi vào
hoặc đi ra một chiều thôi). Tùy theo công dụng cái súp báp còn có tên
là cái “van” (vanne).
Ở VN lốp xe cũ được dùng một cách hữu
hiệu. Họ bọc thêm bên ngoài một lớp “cao su” (caoutchouc) gọi là vỏ xe
tân trang để dùng thêm một thời gian nữa. Đôi khi xe đang chạy, phần đắp
thêm bị văng ra. Đó là xe bị “lột lốp” hay bị bung “ta long” (talon :
đế giày, hoặc phần ngoài vỏ xe). Ngoài ra lốp xe cũ còn dùng để chế tạo
dép. Loại dép nầy rất thông dụng ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam chúng mang
một hình ảnh hơi đen tối sau năm 75 :
Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ,
Mũ tai bèo che lấp ánh tương lai.” (không rõ tác giả)
Cây cao su và anh sớp phơ nói tiếng Tây
Chữ
“cao su” đã được Việt hóa trọn vẹn. Cây cao su là một loại cây cho
nhựa. Nhựa nầy được biến chế thành nhiều vật dụng mà quan trọng nhất là
vỏ xe. Cây cao su là một loại cây kỹ nghệ. Các chủ đồn điên thời Tây là
những nhà giàu có nhiều quyền thế và ảnh hưởng trong việc cai trị. Những
ngôi nhà do họ xây cất để ở là những dinh thự to lớn, còn tồn tại ở rải
rác nhiều nơi. Số lớn các ngôi nhà nầy nằm trong vùng đồn điền hẻo
lánh. Chủ nhân người Pháp của thời đó đều mang súng và có nhiều cận vệ.
Sản
phẩm khác của cao su là dây thun được dùng nhiều trong kỹ nghệ y khoa
và quần áo. Vì tính chất thun giãn của nó, dân ta dùng từ giờ cao su để
chỉ sự kiện hay trễ nãi hay không đúng giờ của dân ta. Giờ cao su trong
các bữa tiệc cưới đã trở thành một nét đặc thù của dân Việt. (Tôi có
nghe câu nói đùa : “không ăn đậu không phải là Mễ, không đi trễ không
phải là Việt Nam”).
Xe máy (xe đạp) với dây sên và ru líp
Trong
chiếc xe đạp hay xe máy, rất nhiều tên các bộ phận được Việt hóa như
dây “sên” (chaine), dây nầy chạy vòng quanh một bánh xe có răng như răng
cưa, gọi là cái “ru líp” (roue libre : bánh xe tự do).
Trong cái
lại có một bộ phận nhỏ có công dụng độc đáo là khi chúng ta đạp xe tới
thì bộ phận đó kéo bánh xe đi tới. Nhưng khi chúng ta quay lui cái bàn
đạp thì chỉ nghe re re mà không có ảnh hưởng gì đến việc kéo xe. Bộ phận
đó có ba tên khác nhau, tùy theo vùng. Trong Nam, nó tên là “con chó” ;
ở miền Trung nó được gọi là “con heo” ; và ở miền Bắc nó mang danh là
“con cóc”. Ai biết sửa chữa cái “ru líp” đều biết cái bộ phận nhỏ quan
trọng đó. Còn tại sao nó có ba tên thì đành chịu thua.
Xe
đạp dùng trong việc chạy đua thường có cái “ghi đông” (guidon : tay cầm)
cong sụp xuống. Xe đạp loại đua nầy còn có tên là xe “cuộc” (course :
chạy đua). Ngày xưa, những “tua” (tour : vòng) đua xe đạp vòng quanh
Đông Dương, hay tua Bến Hải - Cà Mau là những cuộc đua nổi tiếng. Ngày
nay tua vòng quanh nước Pháp (Tour de France) vẫn rất là hấp dẫn cho
giới hâm mộ đua xe đạp. Ngoài ra dân ta thường hay nói “đi dạo một tua
cho khỏe”.
Các hãng du lịch thường hay tổ chức những “tua du lịch”
mà chi phí gồm cả tiền vé phi cơ, tiền khách sạn, tiền ăn v..v... và có
cả hướng dẫn viên đi chung rất tiện cho khách du lịch. Cả Anh, Pháp đều
dùng chữ “tour” nên chữ của VN rất là thông dụng.
Nguyễn Hữu Phước
Trần Văn Giang (ghi lại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét