6 thg 10, 2015
TRI ÂM - Đức Huỳnh
Từ đây bặt tiếng Dao cầm (1)
Vắng người quân tử, tri âm xa rồi
Cánh buồm in bóng lẻ loi
Trường giang xanh biếc chân trời khuất xa (2)
Sông Hán Dương trăng rằm sáng rọi
Khúc Dao cầm chờ đợi tri âm
Tiếng đàn như lưu thủy, hành vân (3)
Giữa trời nước trầm hương lan tỏa (4)
Nguy nguy hồ chí tại cao sơn, dương dương hồ chí tại lưu thủy (5)
Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý, hà xứ xuân giang vô nguyệt minh (6)
Ngàn dặm xa, khách mới trở về, đàn tiếc thương than khóc Nhan Hồi (7)
Trong chiều vắng, nao lòng cây cỏ
Dây đàn dứt giữa chừng không tỏ
Như có người thấu rõ tâm can
Hò, ú, Líu, Xế, Cống, Sự, Xang (8)
Xin cho biết Thất Huyền Cầm từ đâu có
Lục kỵ, Thất không, Bát tuyệt (9)
Bạn cùng ta tâm sự không vơi
Giữa trần ai, có một trên đời
Dưới ánh nguyệt, kết thành huynh đệ
Hẹn năm sau, sẽ về thăm lại
Tập Hiền Thôn, ta khảy khúc Mã Yên (10)
Duy có ngươi thấu hiểu hết nỗi niềm
Tâm tư sâu kín, phổ vào trong khúc nhạc
Như đã hẹn,trung thu năm nay, về thăm chốn cũ
Tiếng đàn sao như ủ rũ, âu sầu
Đàn cất lên, không thấy bóng người đâu
Nhang khói tỏa từ vàng hương bách nhật (11)
Đau xót, bàng hoàng không tin vào sự thật
Song thân đây còn bạn quá xa xăm
Tóc bạc người già đưa tiển kẽ đầu xanh
Những muốn trách trời xanh sao cay nghiệt
Đập nát Dao cầm bên nấm mộ
Bạn mất rồi còn ai hiểu tiếng đàn ta
Đớn đau tâm trạng Bá Nha
Xót thương mệnh Tử Kỳ xa cõi trần
Từ đây bặt tiếng Dao cầm
Đức Huỳnh 2013
Notes: Internet
(1) Dao cầm: Dao cầm được làm từ phần gổ tốt nhất của cây ngô đồng. Khi xưa vua Phục Hy thấy 5 vì sao rơi vào cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng đến đậu. Biết là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, nên vua bảo thợ khéo lấy gổ chế làm nhạc khí gọi là Dao cầm, bắt chước nhạc khí ở Cung Dao Trì.
(2) Thơ Lý Bạch
Cô phàm viễn ảnh bích không tận. Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Cánh buồm in bóng lẻ loi
Trường giang xanh biếc chân trời khuất xa)
(3) lưu thủy, hành vân: nước chảy, mây trôi.
(4) Người xưa trước khi đàn đốt trầm hương.
(5) Nguy nguy hồ chí tại cao sơn, dương dương hồ chí tại lưu thủy
(Tử Kỳ ví tiếng đàn của Bá nha: vời vợi như ngọn núi cao, cuồn cuộn như dòng nước chảy)
(6) Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý, hà xứ xuân giang vô nguyệt minh
(Ánh trăng theo làn nước chảy vạn dặm
Chẳng nơi đâu trên dòng sông xuân không có ánh trăng)
(7) Nhan Hồi: Học trò Khổng Tử, tài cao, đức độ chẳng may chết sớm.
(8) Hò, ú, Líu, Xế, Cống, Sự, Xang : những thang bậc âm ngũ cung xưa.
(9) Thất huyền Cầm: Khởi nguồn Dao cầm có 5 dây. Bá Ấp Khảo con vua Văn Vương thêm vào một dây gọi là dây văn, sau đó vua Võ Vương ( con vua văn Vương, em Bá Ấp Khảo ) Phạt Nhà Trụ thành công, thêm vào một dây gọi là dây võ. Từ đó Dao cầm có 7 dây, còn gọi là Thất Huyền Cầm.
Ðàn ấy có Lục kỵ, Thất không, Bát tuyệt.
Lục Kỵ: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.
Thất Không: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.
Bát Tuyệt: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.
(10) Nhà Tử kỳ ở Tập Hiền Thôn, chân núi Mã Yên.
(11) Bách nhật: 100 ngày. Bá Nha về trễ không gặp,Tử Kỳ đã mất đúng 100 ngày.
(ảnh:Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét