Có
thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình
thức vay mượn từ các
ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính
trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố
khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong việc hình thành ngôn
ngữ vay mượn.
Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền
văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh.
Ở
đây, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là
Tàu cùng những biến
thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia
Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam
ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại
dùng tàu chở đồ
hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ
Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa
Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng
Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn
từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba
Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”
“…Kêu
Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn
người Tàu là anh em,
bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là
Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà
kêu bậy theo làm vậy…”
“…Còn
kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người
bên Tàu hay giữ
phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì
kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà
kêu các ảnh là Chệc…”
Cách
giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được
coi là tạm ổn vì đây
là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc
Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi
chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ
chung người Hoa.
Người
Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại,
chấp nhận vì họ
được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn
“các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không
biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người
Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn
có vị ngọt đặc
biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột!
Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm
viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu.
Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi
thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm
1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã
có một quyết định
khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu
không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc
phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố
tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế
quyền lợi của người Hoa.
Đạo
luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan
đến thóc gạo, điền
địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được chính
phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo
trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương
nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người
Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở
miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người
Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc
biệt nắm chắc ba lĩnh
vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ
kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực
phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền
thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và
90% xuất nhập cảng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá
cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị
trường, chết chật đường chật sá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng
đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức
những đám ma một cách rình rang.
Cũng
như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói
tiếng Quảng Đông (Cantonese)
chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ
Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông
được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới sử dụng.
Người
Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng,
nói tiều” thực
ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy
tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm
1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5
nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền
Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người
Hẹ).
Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét.
Nói
cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc
Quảng Đông, ở Sài
Gòn – Chợ Lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu
Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay
đường Tôn Thọ Tường.
Theo nhà văn Bình-nguyên Lộc, thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu
kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít, sữa nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ
tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen,
nên họ thường đặt cho
mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại
quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông,
chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc.
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc.
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về.
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel, Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á
Đông, Đại La Thiên, Triều Châu…
Cơm
Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ
là cơm trắng dùng
chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để
cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có
người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương
đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy
ngon rồi.
Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An
Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi.
Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng
ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là các thức ăn dư thừa được chế biến lại.
Cũng
thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư?
Nhân bánh bao là
thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay
bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi
cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau
khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp
dẫn.
Có
người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và
tiết kiệm của người
Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên,
bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều
đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tíu”
của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng
gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu
cũng thấy những xe mì, xe hủ tíu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể
biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những
chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần
trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan
Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.
Thịt quay Chợ Lớn
Ăn
điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi
một ly xây chừng,
đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Sang hơn thì
gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt xỉu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với
sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hoặc Con Chim. Có người lại dùng bánh tiêu
hoặc dầu-cha-quẩy nhúng vào cà phê để ăn thay
cho các món điểm tâm đắt tiền.
Vào
một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và
người phục vụ đem
ra một ly đá chanh mát lạnh. Tại các tiệm “cà phê hủ tíu” luôn luôn có
bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ
ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ,
tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một
tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu
tiền?).
Những
từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người
không ngờ mình đã sử
dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào
dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng
là một hình thức hối lộ.
Lạp
xưởng (người Bắc gọi là Lạp xường) là một món ăn có nguồn gốc từ bên
Tàu, tiếng Quảng Châu
là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp
giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày
la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô,
lạp xưởng tươi…
Chế
biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm
từ thịt heo nạc
và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để
chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc
hẳn có thêm chút bột màu.
Lạp
xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món
bánh pía, một món
đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được
gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu
Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là
loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn
thịt mỡ.
Bánh
pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang
theo. Trước đây, việc
làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của
từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng
bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường
để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo
chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày
nay.
Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu
riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối…
Vịt
quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món nổi tiếng của Tàu. Đặc
trưng của món vịt
quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt
heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Vịt quay
hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không
nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh
hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị.
Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực
đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của
người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt
quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba
với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết
“ăn” giờ lại sang đến “chơi”. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài
Gòn xưa đã xuất
hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu
có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1
cái đĩa, 1 cái bát và 3 hột xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn
có tên là xóc đĩa.
Hột
xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một
đến sáu điểm. Khi
ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi
lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số
mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu
mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài
xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ.
Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen
nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét