30 thg 11, 2018
Về Bài "THU VŨ DẠ MIÊN " của BACH CƯ DỊ
Cùng Bạn,
Thu Vũ Dạ Miên
Bạch Cư Dị
Lương lãnh tam thu dạ,
An nhàn nhất lão ông.
Ngoạ trì đăng diệt hậu,
Thuỳ mỹ vũ thanh trung.
Hôi túc ôn bình hoả,
Hương thiêm noãn bị lung.
Hiểu tình hàn vị khởi,
Sương diệp mãn giai hồng.
Dịch nghĩa:
Ngủ Trong Đêm Thu Mưa
Một đêm giá lạnh trong ba tháng thu;
có một ông già đang an nhàn.
Lên giường trễ sau khi tắt đèn;
ngủ ngon trong tiếng mưa rơi.
Chỉ còn tro tàn trong lò sưởi;
bỏ thêm trầm hương vào lồng đốt.
Buổi sáng quang đãng, khí lạnh chưa tới;
Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm.
- Bản dịch của Mai Lộc --
Ba tháng thu một đêm lạnh lẽo
Một lão nhân trong vẻ an nhàn .
Lên giường đèn tắt muộn màng
Vùi say giấc điệp mơ màng nhạc mưa .
Trong lò hồng tro vừa tắt ngủm
Thêm trầm hương một nhúm vào lồng
Rét còn chưa tới, rạng đông
Sương đêm nhuộm thắm rực hồng lá thu .
Đỗ Chiêu Đức
Lâu lắm Cali mới hưởng được một trận mưa rỉ rả suốt đêm qua và sẽ kéo dài hết ngày hôm nay. Mưa thì có nước xài và ao hồ bớt cạn và những cánh đồng bát ngát cây trái có nước để tưới tiêu thật mừng, tuy nhiên người ta đang lo âu cho những trận đất chuồi núi lở sẽ xảy ra ở những vùng bị bão lửa vừa qua sẽ khủng khiếp nếu mưa bão liên tục. Nhưng thôi tạm để qua một bên cái lo âu muôn đời của kiếp nhân sinh, mời các bạn thơ hãy thưởng thức một bài thơ của Bạch Cư DỊ dưới đây, và riêng tôi cũng thật cảm khái nghe tiếng mưa tí tách bên ngoài đêm qua, nhất là sáng nay dậy sớm , bên ly cà phê nóng thơm lừng, nhìn màn mưa bên ngoài mà cảm thấy vô cùng hạnh phúc, mình được ân huệ của Trời Đất,hơn biết bao nhiêu người khác trên hành tinh nầy đang đói lạnh không nhà! Xin cảm tạ Ơn Trên.
Mailoc
Thu Vũ Dạ Miên
Bạch Cư Dị
Lương lãnh tam thu dạ,
An nhàn nhất lão ông.
Ngoạ trì đăng diệt hậu,
Thuỳ mỹ vũ thanh trung.
Hôi túc ôn bình hoả,
Hương thiêm noãn bị lung.
Hiểu tình hàn vị khởi,
Sương diệp mãn giai hồng.
Dịch nghĩa:
Ngủ Trong Đêm Thu Mưa
Một đêm giá lạnh trong ba tháng thu;
có một ông già đang an nhàn.
Lên giường trễ sau khi tắt đèn;
ngủ ngon trong tiếng mưa rơi.
Chỉ còn tro tàn trong lò sưởi;
bỏ thêm trầm hương vào lồng đốt.
Buổi sáng quang đãng, khí lạnh chưa tới;
Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm.
- Bản dịch của Mai Lộc --
Ba tháng thu một đêm lạnh lẽo
Một lão nhân trong vẻ an nhàn .
Lên giường đèn tắt muộn màng
Vùi say giấc điệp mơ màng nhạc mưa .
Trong lò hồng tro vừa tắt ngủm
Thêm trầm hương một nhúm vào lồng
Rét còn chưa tới, rạng đông
Sương đêm nhuộm thắm rực hồng lá thu .
Mailoc phỏng dịch
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :
1. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ :
秋雨夜眠 THU VŨ DẠ MIÊN
涼冷三秋夜, Lương lãnh tam thu dạ,
安閒一老翁。 An nhàn nhất lão ông.
臥遲燈滅後, Ngọa trì đăng diệt hậu,
睡美雨聲中。 Thụy mỹ vũ thanh trung.
灰宿溫瓶火, Hôi túc ôn bình hỏa,
灰宿溫瓶火, Hôi túc ôn bình hỏa,
香添暖被籠。 Hương thiêm noãn bị lung.
曉晴寒未起, Hiểu tình hàn vị khởi,
霜葉滿階紅。 Sương diệp mãn giai hồng !
白居易 Bạch Cư Dị
2. Chú thích :
- Lương Lãnh : Lương là Mát; Lãnh là Lạnh; Lương Lãnh là Mát đến thấy lạnh, vì đã Tam Thu là vào khoảng tháng 9 âm lịch.
- Bình Hỏa : là Cái bình bằng sành hơ trên lửa cho nóng để ôm ngủ cho ấm trong đêm thu lạnh lẽo.
- Bị Lung : là cái mền bung ra như cái lồng để chui vào cho ấm.
- Hiểu Tình : là Buổi sáng tạnh ráo không có mưa thu.
- Sương Diệp : là Những chiếc lá nhuốm sương thu.
3. Bối cảnh xuất xứ của bài thơ :
Bài thơ trên đây được sáng tác vào năm Đại Hòa thứ 6, đời vua Đường Văn Tông. Lúc bấy giờ Bạch Cư Dị đang là Phủ Doãn của tỉnh Hà Nam, đã trên sáu mươi tuổi và thân thể đã suy nhược già yếu. Việc quan tuy nhàn hạ nhưng vô vị, cộng thêm người bạn thơ thân thiết là Nguyên Chẩn 元稹 vừa mới tạ thế, nên tâm tình
của ông đang xuống dốc buồn chán và lãnh đạm với mọi việc.
4. Nghĩa Bài Thơ :
Ngủ Trong Đêm Mưa Thu
Một lão ông đang an nhàn ngủ đi trong cái lạnh lẽo của ba tháng mùa thu. Nằm trăn trở hèn lâu khi đèn đóm đà tắt hết, rồi ngủ thiếp đi ngon lành trong tiếng mưa thu. Tro tàn trong lò còn làm ấm lên cái bình sưởi, và trầm hương còn tỏa hương thơm vào tấm chăn thơm ấm áp. Trong buổi sáng mai quang tạnh nhưng lạnh lẽo nầy, ta còn nằm ráng mà chưa muốn thức dậy, trong khi sương thu đã nhuộm đỏ cả các lá cây rụng xuống phủ đỏ cả các bậc thềm !
5. Diễn Nôm :
Ngủ Trong Đêm Mưa Thu
Ba tháng thu lạnh lẽo,
An nhàn một lão ông.
Tắt đèn đi ngủ trễ,
Mưa thu say giấc nồng.
Bình sưởi tàn tro ấm,
Chăn gối thoảng hương nồng.
Sáng trời chưa muốn dậy,
Sương nhuốm lá đỏ hồng !
Lục bát :
Ba thu lạnh lẽo heo may,
An nhàn một lão ông ngoài sáu mươi.
Đèn tàn nằm trễ nghe lười,
Mưa thu thánh thót ngủ vùi năm canh.
Tro tàn bình ấm còn quanh,
Trầm hương thoang thoảng chăn lành lạnh thơm.
Sáng ngày biếng dậy chập chờn,
Sương thu nhuộm lá đỏ rơn mặt thềm !
Tôi là một nhà truyền giáo người Mỹ ở Honduras – Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh bạo lực mà họ chịu đựng
America Magazine
Tác giả: Patrick Gothman
Dịch giả: Lam Kiều Lam
Tại mỗi tiệm bánh Dunkin ‘Donuts ở Honduras, luôn có một nhân viên bảo vệ mang súng đứng canh gác. Khi bạn vào một tiệm thuốc tây, người bảo vệ với khẩu súng ngắn đeo trên ngực, sẽ giữ khẩu súng của bạn một cách thận trọng, trong khi bạn chờ đợi mua thuốc theo toa bác sĩ.
Vào những ngày lễ, không bắn pháo hoa bắn chính thức, chỉ có một số pháo nổ và súng nổ bất hợp pháp, nổ tung trong màn đêm. Vào đêm trước Giáng sinh, Năm mới, lễ Quốc khánh, mọi thị trấn trên khắp đất nước, những tiếng súng vang vọng trong bóng đêm như một lực lượng vũ trang phi nước đại ra khỏi thị trấn, giống như trong phim cao bồi miền Tây hoang dã.
Năm năm trước, tôi rời Hoa Kỳ để cùng với những người Mỹ và những người Nicaragua tình nguyện đến làm việc tại ngôi nhà dành cho trẻ em trên bờ biển phía bắc Honduras, nơi phục vụ trẻ em mồ côi và trẻ em không còn sống với gia đình do nghèo khổ, bị lạm dụng hoặc cả hai. Chúng tôi trực tiếp chứng kiến thiên đường và địa ngục từ những người hàng xóm bên cạnh, và bạn có thể nghe thấy tiếng súng nổ vào ban đêm từ cả hai phía.
Lần đầu tiên tôi bị một khẩu súng chĩa vào tôi trong khi tôi đang chờ taxi vào sáng tinh mơ ở khu phố giàu có nhất San Pedro Sula, trung tâm công nghiệp của đất nước, và vào thời điểm đó là “thủ đô giết người” của thế giới. Nhân viên bảo vệ nhìn thấy tôi đang đứng bên ngoài chủng viện, nơi tôi đã qua đêm với tư cách khách mời. Anh ta trèo xuống từ tháp pháo của mình trên góc phố và tiếp cận tôi với một tay cầm con dao rựa, tay kia nâng một khẩu súng lục.
“Anh đang làm gì ở đây?” Anh nheo mắt nhìn tôi, chớp mắt lại.
“Tôi chỉ chờ taxi. Tôi đi tới sân bay”, tôi nói.
Anh ta hỏi: “Vậy tại sao anh lại đợi ở đây, trên đường này? Không có gì tốt đẹp xảy ra ở đây vào thời điểm này”. Xung quanh chúng tôi là những ngôi nhà biệt thự theo tiêu chuẩn của Mỹ. Tôi muốn trở lại bên trong chủng viện, nhưng cánh cổng cao 15 feet đã đóng lại sau lưng và tôi không thể mở nó mà không đánh thức tất cả các linh mục, nữ tu và chủng sinh bên trong.
Tôi đề nghị: “Tôi có thể sang khu nhà khác và đợi. Xe của tôi chỉ cách năm phút thôi”.
“Không! Anh đợi ở đó. Đừng đi đâu cả. Đợi đấy”, anh ta nhấn mạnh.
Khi xe taxi của tôi cuối cùng đã đến, anh ta cất súng vào bao và nói lời xin lỗi, nhưng tôi không nấn ná lâu để đáp lời anh.
Trước khi dọn đến Honduras, tôi đã đến thăm đất nước này. Trong một tuần, tôi giúp hướng dẫn một nhóm học sinh trung học từ tất cả các trường Công giáo ở Giáo phận Dallas, những người cung cấp một số việc làm thủ công và vật liệu cho “giáo phận chị em của chúng tôi”. Trong bóng tối của một ngọn núi xanh lớn, chúng tôi đã xây dựng lại và sơn một ngôi trường đông đúc, nơi Luis là người hướng dẫn địa phương của chúng tôi, có vợ là giáo viên. Luis giống như viên thị trưởng ở ngôi làng nhỏ này. Ông điều hành trường học, giúp giải quyết các tranh chấp, hướng dẫn học Kinh Thánh cho cộng đồng và làm lễ vào Chủ Nhật, và là một trong những cư dân duy nhất có xe hơi, nên ông cũng cung cấp dịch vụ xe cứu thương.
Một buổi sáng, ông chào chúng tôi với đôi mắt đỏ ngầu và thâm quầng. Ông đã đưa một người hàng xóm bị đau dạ dày đến bệnh viện vào giữa đêm — hơn một giờ lái xe mỗi bận, từ phía bên kia của ngọn núi. Ông trở lại kịp lúc để ăn sáng và cầu nguyện và chào đón chúng tôi vào buổi sáng tại trường.
Luis và vợ ông là những tấm gương nổi bật về hàng loạt câu chuyện mà họ đã làm được trong bối cảnh nghèo đói cùng cực. Với lòng quyết tâm và một trái tim thiện lành, người ta có thể trở thành trụ cột của cộng đồng — một cộng đồng đáng để ở lại.
Có lần tôi hỏi Luis, có phải nhiều thanh niên trong làng của ông muốn bỏ đi Mỹ hay không. “Tất cả bọn họ”, ông nói với tôi. Không có sự xấu hổ trong giọng nói của ông, mà đơn giản chỉ là sự thật. Khi tôi hỏi ông, có bao giờ ông nghĩ đến việc bỏ đi, ông lắc đầu. Ông có vợ và một đứa con trai, một công việc tốt, một cộng đồng nơi ông sống, giúp tạo ra sự khác biệt; ông không thể tưởng tượng đến việc bỏ đi.
Nhiều năm sau, khi tôi chuyển đến một thị trấn ở phía bên kia của ngọn núi đó, tôi đón xe buýt để thăm Luis và gia đình ông. Ông rất vui mừng khi gặp lại tôi nhưng đã cảnh báo tôi, lần sau đừng đi xe buýt. “Nó không an toàn”, là tất cả những gì ông nói.
Trong hai năm ở Honduras, tôi đã học cách yêu thương những đứa trẻ đó tại ngôi nhà nơi chúng tôi làm việc, như thể chúng là con mình. Mục tiêu của chúng tôi là chuẩn bị cho chúng cuộc sống lành mạnh và hiệu quả ở Honduras, mặc cho thời thơ ấu tàn bạo và đau khổ mà chúng đã phải chịu đựng. Nếu chúng tôi có thể tặng cho những đứa trẻ tình yêu thương đầy đủ, sự ổn định và bình yên giữa cơn bão động bao quanh chúng, sau lưng chúng là quá khứ, thì chúng tôi tin chúng có thể có một cơ hội chiến đấu.
Tuy nhiên, bạo lực xảy ra không hề báo trước, và nó bất kể những niềm tin chân thành. Vừa trở về từ lớp tiếng Anh tôi dạy trong ngày, tôi nghe tin một trong những tình nguyện viên và giám đốc điều hành của chúng tôi, là người đến từ Hoa Kỳ, đã bị tấn công trên bãi biển gần khu nhà chúng tôi. Có lẽ khoảng 200 mét từ khu trú ẩn của chúng tôi, họ đã bị kề dao phay vào cổ và một tình nguyện viên, một trong những người bạn thân nhất của tôi, cô đã bị hãm hiếp. “Chúng tôi biết các người từ đâu tới. Nếu các người kể cho ai nghe thì chúng tôi sẽ trở lại và giết các người và tất cả những đứa trẻ”, những kẻ tấn công đã nói khi thả họ đi.
Sau khi đến bệnh viện và báo cáo cảnh sát, người bạn yêu quý của tôi đã trải qua đêm cùng với tất cả chúng tôi trên nền nhà, một vài người trong chúng tôi mang dao phay kề bên và tất cả chúng tôi không thể ngủ được. Sáng hôm sau, cô ấy đã được di tản ra khỏi nước này, và tất cả chúng tôi cũng đã được ban giám đốc đề nghị rời khỏi nơi này. Bổng dưng, sự lựa chọn đáng ghét là phải chạy trốn khỏi đất nước này, trong đó có rất nhiều người hàng xóm Honduras của chúng tôi, đã biến thành vấn đề của tôi. Những kẻ phạm tội vẫn chưa bị bắt, và cộng đồng tình nguyện viên ít ỏi của chúng tôi nhanh chóng suy yếu khi nhiều người thừa nhận, họ không còn cảm thấy an toàn để tiếp tục làm việc. Ngày hôm sau, những người còn lại cũng rời khỏi đất nước.
Vài năm sau, tôi đã liên lạc được với Luis qua WhatsApp. Hóa ra ông và gia đình đã trốn khỏi thị trấn nhỏ của họ vào giữa đêm. Một băng đảng địa phương đã yêu cầu ông trả cho họ tiền phí “bảo vệ”, và khi Luis từ chối, họ đe dọa sẽ giết ông và cả gia đình. Họ chạy trốn đến một thành phố lớn hơn, nhưng ông và vợ không thể tìm được công việc giảng dạy và vẫn sợ băng đảng cuối cùng sẽ tìm thấy họ. Ông hỏi tôi có thể giúp ông xin tị nạn ở Hoa Kỳ được không.
Tôi đã liên lạc với vài luật sư di trú, họ nói với tôi rằng, Luis phải vượt đường xa tìm đến biên giới Mexico-Hoa Kỳ và nộp đơn xin tị nạn ở đó. Nhưng ngay cả khi ông ấy có thể tới được biên giới, tôi phải nói với Luis rằng, có khả năng gia đình ông sẽ không được cấp quy chế tị nạn. Luis đau khổ. Ông cần bảo vệ gia đình của mình, ông nói, và cách tốt nhất ông có thể làm là bỏ đi, để có thể giúp gia đình ông được sống. Có thể tôi và anh kết hôn, chỉ trên giấy tờ, ông nói nghiêm túc. Ông nói đúng, rằng việc đó (tức hôn nhân đồng tính: ND) bây giờ hợp pháp ở đây, tại Hoa Kỳ, tôi giải thích, nhưng tôi không thể kết hôn với ông để ông có quốc tịch. Cho dù lời đề nghị của ông là ngớ ngẩn, tôi đã bứt rứt khi gõ lời từ chối ông, biết rằng quyết định của tôi là vấn đề sống, chết.
Tôi vẫn nhận được tin nhắn từ Luis mỗi vài tuần, cầu xin tôi giúp đỡ, mặc dù thành thật mà nói, tôi không còn đủ can đảm để mở tin nhắn của ông ra xem nữa. Vì những tin nhắn liên tục nhắc tôi rằng, tôi bất lực, khiến tôi không chịu nỗi. Tôi biết rằng tôi có quyền phớt lờ nạn bạo lực ở Honduras và giả vờ như tôi không sống ở đất nước đã tạo ra sự tuyệt vọng của Luis, cũng là đất nước có thể giúp sửa chữa nó.
Với tất cả những gì tôi biết, Luis có thể là một thành phần trong đoàn di cư vô danh, chờ đợi ở phía bên kia biên giới phía nam để xin tị nạn. Đó là điều mà một người bạn thực sự nên biết. Điều quan trọng phải biết những người này là ai và những gì họ làm là hợp pháp (xin tị nạn là hợp pháp ở Hoa Kỳ: ND). Không có cách nào để họ xin tị nạn từ nước họ. Ám chỉ rằng những người có mặt ôn hoà, làm thủ tục xin tị nạn tại các cửa khẩu là vi phạm luật pháp của Mỹ, là không trung thực.
Khi tôi gặp Luis lần đầu tiên, tôi cho rằng ở Honduras có thể có được nền giáo dục, công việc và trở nên ổn định về mặt tài chính mà bạn sẽ không bao giờ cần phải rời khỏi đất nước. Nhưng hình ảnh trong đầu tôi về “người Honduras đạo đức” đã chứng minh sự ảo tưởng, khi Luis thậm chí bị buộc phải chạy trốn khỏi bạo lực và nghèo đói ở Trung Mỹ. Nếu chúng ta muốn chấm dứt việc các gia đình ban đêm chạy trốn vào biên giới của chúng ta, thì chúng ta cần tìm hiểu lý do tại sao ban đêm của họ trở nên quá khủng khiếp để bắt đầu.
Các loại vũ khí nhiễu loạn đường phố của họ đến từ nuớc Mỹ chúng ta. Tham nhũng xâm nhập vào chính phủ của họ là kết quả trực tiếp của cuộc đảo chính và bất ổn mà đất nước chúng ta đã liên tục chỉ thị hoặc dung túng trong hơn một thế kỷ. Trước khi Banana Republic là một cửa hàng quần áo sang trọng, đó là một thuật ngữ áp đặt lên một quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào một nền kinh tế mạnh mẽ hơn bên ngoài biên giới của nó. Nó chỉ là một phiên bản mới của chủ nghĩa thực dân, và nạn nhân nguyên thủy là Honduras.
Nghèo đói và bạo lực, nguyên nhân của những đoàn lữ hành, là những căn bệnh mà chúng tôi đã truyền nhiễm cho các nước này. Việc những người nổi giận với những người di cư giống như những kẻ đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ, và những người da trắng đầu tiên, tự hỏi tại sao người Mỹ bản địa luôn ốm đau.
Những người trong chúng ta sống ở phía bắc biên giới Mexico phải học cách hòa mình vào đất đai của chúng ta và tại sao hàng xóm của chúng ta ở phía nam vẫn nghe thấy tiếng súng nổ vào ban đêm. Tôi đã chạy trốn từ bên này sang bên kia và theo dõi trong vô vọng những người tôi quan tâm đến đang cố gắng đi theo. Nhưng được sinh ra trong thiên đường không có lý do gì để lên án những người vẫn còn bị mắc kẹt trong địa ngục.
Tác giả: Patrick Gothman là cây bút người Công giáo, sống tại thành phố Seattle, bang Washington. Ông hiện là biên tập viên cho trang Reaching Out, một ấn phẩm về những câu chuyện của những người L.G.B.T., từ những người có đức tin.
Tác giả: Patrick Gothman
Dịch giả: Lam Kiều Lam
Tại mỗi tiệm bánh Dunkin ‘Donuts ở Honduras, luôn có một nhân viên bảo vệ mang súng đứng canh gác. Khi bạn vào một tiệm thuốc tây, người bảo vệ với khẩu súng ngắn đeo trên ngực, sẽ giữ khẩu súng của bạn một cách thận trọng, trong khi bạn chờ đợi mua thuốc theo toa bác sĩ.
Vào những ngày lễ, không bắn pháo hoa bắn chính thức, chỉ có một số pháo nổ và súng nổ bất hợp pháp, nổ tung trong màn đêm. Vào đêm trước Giáng sinh, Năm mới, lễ Quốc khánh, mọi thị trấn trên khắp đất nước, những tiếng súng vang vọng trong bóng đêm như một lực lượng vũ trang phi nước đại ra khỏi thị trấn, giống như trong phim cao bồi miền Tây hoang dã.
Năm năm trước, tôi rời Hoa Kỳ để cùng với những người Mỹ và những người Nicaragua tình nguyện đến làm việc tại ngôi nhà dành cho trẻ em trên bờ biển phía bắc Honduras, nơi phục vụ trẻ em mồ côi và trẻ em không còn sống với gia đình do nghèo khổ, bị lạm dụng hoặc cả hai. Chúng tôi trực tiếp chứng kiến thiên đường và địa ngục từ những người hàng xóm bên cạnh, và bạn có thể nghe thấy tiếng súng nổ vào ban đêm từ cả hai phía.
Lần đầu tiên tôi bị một khẩu súng chĩa vào tôi trong khi tôi đang chờ taxi vào sáng tinh mơ ở khu phố giàu có nhất San Pedro Sula, trung tâm công nghiệp của đất nước, và vào thời điểm đó là “thủ đô giết người” của thế giới. Nhân viên bảo vệ nhìn thấy tôi đang đứng bên ngoài chủng viện, nơi tôi đã qua đêm với tư cách khách mời. Anh ta trèo xuống từ tháp pháo của mình trên góc phố và tiếp cận tôi với một tay cầm con dao rựa, tay kia nâng một khẩu súng lục.
“Anh đang làm gì ở đây?” Anh nheo mắt nhìn tôi, chớp mắt lại.
“Tôi chỉ chờ taxi. Tôi đi tới sân bay”, tôi nói.
Anh ta hỏi: “Vậy tại sao anh lại đợi ở đây, trên đường này? Không có gì tốt đẹp xảy ra ở đây vào thời điểm này”. Xung quanh chúng tôi là những ngôi nhà biệt thự theo tiêu chuẩn của Mỹ. Tôi muốn trở lại bên trong chủng viện, nhưng cánh cổng cao 15 feet đã đóng lại sau lưng và tôi không thể mở nó mà không đánh thức tất cả các linh mục, nữ tu và chủng sinh bên trong.
Tôi đề nghị: “Tôi có thể sang khu nhà khác và đợi. Xe của tôi chỉ cách năm phút thôi”.
“Không! Anh đợi ở đó. Đừng đi đâu cả. Đợi đấy”, anh ta nhấn mạnh.
Khi xe taxi của tôi cuối cùng đã đến, anh ta cất súng vào bao và nói lời xin lỗi, nhưng tôi không nấn ná lâu để đáp lời anh.
Trước khi dọn đến Honduras, tôi đã đến thăm đất nước này. Trong một tuần, tôi giúp hướng dẫn một nhóm học sinh trung học từ tất cả các trường Công giáo ở Giáo phận Dallas, những người cung cấp một số việc làm thủ công và vật liệu cho “giáo phận chị em của chúng tôi”. Trong bóng tối của một ngọn núi xanh lớn, chúng tôi đã xây dựng lại và sơn một ngôi trường đông đúc, nơi Luis là người hướng dẫn địa phương của chúng tôi, có vợ là giáo viên. Luis giống như viên thị trưởng ở ngôi làng nhỏ này. Ông điều hành trường học, giúp giải quyết các tranh chấp, hướng dẫn học Kinh Thánh cho cộng đồng và làm lễ vào Chủ Nhật, và là một trong những cư dân duy nhất có xe hơi, nên ông cũng cung cấp dịch vụ xe cứu thương.
Một buổi sáng, ông chào chúng tôi với đôi mắt đỏ ngầu và thâm quầng. Ông đã đưa một người hàng xóm bị đau dạ dày đến bệnh viện vào giữa đêm — hơn một giờ lái xe mỗi bận, từ phía bên kia của ngọn núi. Ông trở lại kịp lúc để ăn sáng và cầu nguyện và chào đón chúng tôi vào buổi sáng tại trường.
Luis và vợ ông là những tấm gương nổi bật về hàng loạt câu chuyện mà họ đã làm được trong bối cảnh nghèo đói cùng cực. Với lòng quyết tâm và một trái tim thiện lành, người ta có thể trở thành trụ cột của cộng đồng — một cộng đồng đáng để ở lại.
Có lần tôi hỏi Luis, có phải nhiều thanh niên trong làng của ông muốn bỏ đi Mỹ hay không. “Tất cả bọn họ”, ông nói với tôi. Không có sự xấu hổ trong giọng nói của ông, mà đơn giản chỉ là sự thật. Khi tôi hỏi ông, có bao giờ ông nghĩ đến việc bỏ đi, ông lắc đầu. Ông có vợ và một đứa con trai, một công việc tốt, một cộng đồng nơi ông sống, giúp tạo ra sự khác biệt; ông không thể tưởng tượng đến việc bỏ đi.
Nhiều năm sau, khi tôi chuyển đến một thị trấn ở phía bên kia của ngọn núi đó, tôi đón xe buýt để thăm Luis và gia đình ông. Ông rất vui mừng khi gặp lại tôi nhưng đã cảnh báo tôi, lần sau đừng đi xe buýt. “Nó không an toàn”, là tất cả những gì ông nói.
Trong hai năm ở Honduras, tôi đã học cách yêu thương những đứa trẻ đó tại ngôi nhà nơi chúng tôi làm việc, như thể chúng là con mình. Mục tiêu của chúng tôi là chuẩn bị cho chúng cuộc sống lành mạnh và hiệu quả ở Honduras, mặc cho thời thơ ấu tàn bạo và đau khổ mà chúng đã phải chịu đựng. Nếu chúng tôi có thể tặng cho những đứa trẻ tình yêu thương đầy đủ, sự ổn định và bình yên giữa cơn bão động bao quanh chúng, sau lưng chúng là quá khứ, thì chúng tôi tin chúng có thể có một cơ hội chiến đấu.
Tuy nhiên, bạo lực xảy ra không hề báo trước, và nó bất kể những niềm tin chân thành. Vừa trở về từ lớp tiếng Anh tôi dạy trong ngày, tôi nghe tin một trong những tình nguyện viên và giám đốc điều hành của chúng tôi, là người đến từ Hoa Kỳ, đã bị tấn công trên bãi biển gần khu nhà chúng tôi. Có lẽ khoảng 200 mét từ khu trú ẩn của chúng tôi, họ đã bị kề dao phay vào cổ và một tình nguyện viên, một trong những người bạn thân nhất của tôi, cô đã bị hãm hiếp. “Chúng tôi biết các người từ đâu tới. Nếu các người kể cho ai nghe thì chúng tôi sẽ trở lại và giết các người và tất cả những đứa trẻ”, những kẻ tấn công đã nói khi thả họ đi.
Sau khi đến bệnh viện và báo cáo cảnh sát, người bạn yêu quý của tôi đã trải qua đêm cùng với tất cả chúng tôi trên nền nhà, một vài người trong chúng tôi mang dao phay kề bên và tất cả chúng tôi không thể ngủ được. Sáng hôm sau, cô ấy đã được di tản ra khỏi nước này, và tất cả chúng tôi cũng đã được ban giám đốc đề nghị rời khỏi nơi này. Bổng dưng, sự lựa chọn đáng ghét là phải chạy trốn khỏi đất nước này, trong đó có rất nhiều người hàng xóm Honduras của chúng tôi, đã biến thành vấn đề của tôi. Những kẻ phạm tội vẫn chưa bị bắt, và cộng đồng tình nguyện viên ít ỏi của chúng tôi nhanh chóng suy yếu khi nhiều người thừa nhận, họ không còn cảm thấy an toàn để tiếp tục làm việc. Ngày hôm sau, những người còn lại cũng rời khỏi đất nước.
Vài năm sau, tôi đã liên lạc được với Luis qua WhatsApp. Hóa ra ông và gia đình đã trốn khỏi thị trấn nhỏ của họ vào giữa đêm. Một băng đảng địa phương đã yêu cầu ông trả cho họ tiền phí “bảo vệ”, và khi Luis từ chối, họ đe dọa sẽ giết ông và cả gia đình. Họ chạy trốn đến một thành phố lớn hơn, nhưng ông và vợ không thể tìm được công việc giảng dạy và vẫn sợ băng đảng cuối cùng sẽ tìm thấy họ. Ông hỏi tôi có thể giúp ông xin tị nạn ở Hoa Kỳ được không.
Tôi đã liên lạc với vài luật sư di trú, họ nói với tôi rằng, Luis phải vượt đường xa tìm đến biên giới Mexico-Hoa Kỳ và nộp đơn xin tị nạn ở đó. Nhưng ngay cả khi ông ấy có thể tới được biên giới, tôi phải nói với Luis rằng, có khả năng gia đình ông sẽ không được cấp quy chế tị nạn. Luis đau khổ. Ông cần bảo vệ gia đình của mình, ông nói, và cách tốt nhất ông có thể làm là bỏ đi, để có thể giúp gia đình ông được sống. Có thể tôi và anh kết hôn, chỉ trên giấy tờ, ông nói nghiêm túc. Ông nói đúng, rằng việc đó (tức hôn nhân đồng tính: ND) bây giờ hợp pháp ở đây, tại Hoa Kỳ, tôi giải thích, nhưng tôi không thể kết hôn với ông để ông có quốc tịch. Cho dù lời đề nghị của ông là ngớ ngẩn, tôi đã bứt rứt khi gõ lời từ chối ông, biết rằng quyết định của tôi là vấn đề sống, chết.
Tôi vẫn nhận được tin nhắn từ Luis mỗi vài tuần, cầu xin tôi giúp đỡ, mặc dù thành thật mà nói, tôi không còn đủ can đảm để mở tin nhắn của ông ra xem nữa. Vì những tin nhắn liên tục nhắc tôi rằng, tôi bất lực, khiến tôi không chịu nỗi. Tôi biết rằng tôi có quyền phớt lờ nạn bạo lực ở Honduras và giả vờ như tôi không sống ở đất nước đã tạo ra sự tuyệt vọng của Luis, cũng là đất nước có thể giúp sửa chữa nó.
Với tất cả những gì tôi biết, Luis có thể là một thành phần trong đoàn di cư vô danh, chờ đợi ở phía bên kia biên giới phía nam để xin tị nạn. Đó là điều mà một người bạn thực sự nên biết. Điều quan trọng phải biết những người này là ai và những gì họ làm là hợp pháp (xin tị nạn là hợp pháp ở Hoa Kỳ: ND). Không có cách nào để họ xin tị nạn từ nước họ. Ám chỉ rằng những người có mặt ôn hoà, làm thủ tục xin tị nạn tại các cửa khẩu là vi phạm luật pháp của Mỹ, là không trung thực.
Khi tôi gặp Luis lần đầu tiên, tôi cho rằng ở Honduras có thể có được nền giáo dục, công việc và trở nên ổn định về mặt tài chính mà bạn sẽ không bao giờ cần phải rời khỏi đất nước. Nhưng hình ảnh trong đầu tôi về “người Honduras đạo đức” đã chứng minh sự ảo tưởng, khi Luis thậm chí bị buộc phải chạy trốn khỏi bạo lực và nghèo đói ở Trung Mỹ. Nếu chúng ta muốn chấm dứt việc các gia đình ban đêm chạy trốn vào biên giới của chúng ta, thì chúng ta cần tìm hiểu lý do tại sao ban đêm của họ trở nên quá khủng khiếp để bắt đầu.
Các loại vũ khí nhiễu loạn đường phố của họ đến từ nuớc Mỹ chúng ta. Tham nhũng xâm nhập vào chính phủ của họ là kết quả trực tiếp của cuộc đảo chính và bất ổn mà đất nước chúng ta đã liên tục chỉ thị hoặc dung túng trong hơn một thế kỷ. Trước khi Banana Republic là một cửa hàng quần áo sang trọng, đó là một thuật ngữ áp đặt lên một quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào một nền kinh tế mạnh mẽ hơn bên ngoài biên giới của nó. Nó chỉ là một phiên bản mới của chủ nghĩa thực dân, và nạn nhân nguyên thủy là Honduras.
Nghèo đói và bạo lực, nguyên nhân của những đoàn lữ hành, là những căn bệnh mà chúng tôi đã truyền nhiễm cho các nước này. Việc những người nổi giận với những người di cư giống như những kẻ đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ, và những người da trắng đầu tiên, tự hỏi tại sao người Mỹ bản địa luôn ốm đau.
Những người trong chúng ta sống ở phía bắc biên giới Mexico phải học cách hòa mình vào đất đai của chúng ta và tại sao hàng xóm của chúng ta ở phía nam vẫn nghe thấy tiếng súng nổ vào ban đêm. Tôi đã chạy trốn từ bên này sang bên kia và theo dõi trong vô vọng những người tôi quan tâm đến đang cố gắng đi theo. Nhưng được sinh ra trong thiên đường không có lý do gì để lên án những người vẫn còn bị mắc kẹt trong địa ngục.
Tác giả: Patrick Gothman là cây bút người Công giáo, sống tại thành phố Seattle, bang Washington. Ông hiện là biên tập viên cho trang Reaching Out, một ấn phẩm về những câu chuyện của những người L.G.B.T., từ những người có đức tin.
Bàn về Khúc ngâm người tiết phụ đời Đường
Văn Việt .
Tôi nhớ có lần thi sĩ Borges xứ Argentina, Nam Bán Cầu viết câu thơ hay: “Tôi sanh ra ở xứ lạnh, để sưởi ấm đôi bàn tay, nên tôi làm thơ”.
Tứ thơ đẹp lung linh khiến người đọc giật mình nên tôi mạo muội bắt
chước ý nghĩ đó – mình cũng hiện ở xứ lạnh, ngó qua ngó lại thì sự
nghiệp công danh không có gì hết, trơ trọi một thân già, những khi trời
đông lạnh, tuyết bay phơi phới trắng xóa đầy trời, thì tại sao không
mượn câu thơ để gầy lò sưởi ấm? Và hôm nay tôi mượn bài Tiết Phụ Ngâm
của Trương Tịch (766-827 đời Đường), một thi sĩ nổi tiếng thời Trung
Đường, vì bài này cứ mỗi lần đọc là mỗi lần thú vị, thâm trầm.
Tiết Phụ Ngâm
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu,
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt
Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử
Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.
Khúc ngâm của người thiếu phụ trinh tiết
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
Ngay từ hai chữ “tiết phụ” ở nhan đề tác giả muốn
khoe ngay cái ý chánh của bài thơ, không mập mờ, xa xôi, tượng trưng,
bóng bẩy gì ráo trọi. Tiết phụ là người đàn bà thủ tiết thờ chồng, theo
quan niệm ngàn xưa đức Khổng Tử đặt ra. Tam tòng, tứ đức là khuôn vàng
thước ngọc người phụ nữ phải biết gìữ mình cho trọn vẹn – Trai thời trung hiếu làm đầu / Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Như vậy ở phương trời Á Đông theo chế độ phụ hệ
này, gái có chồng thì phải biết thờ chồng, nuôi con, đó là phẩm hạnh cao
quí của người đàn bà, chấm hết, không cần phải nói thêm một chữ nào.
Nói cho rõ hơn một chút nếu một ngày đẹp trời nào dó trời xui đất khiến
bất chợt gặp một người dưng khác họ, con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai,
nhiều cảm tình, lại cuốn hút, hào hoa phong nhã, rồi đem lòng nhớ
thương, khiến trái tim nàng đập trật nhịp, thì cũng không được nghĩ này
nghĩ kia, đầu mày cuối mắt, đi ngang về tắt, thêm bớt vẽ vời gì hết
trơn. Một người đàn bà đã có chồng, không thể để phải lỗi đạo chồng con,
phạm vào lễ nghi phong giáo. “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ / Chim vào lồng biết thuở nào ra”.
Vào cuối thế kỷ 19 ở Việt Nam có bà mẹ nho sĩ
Nguyễn Cao đi hái lá trong ruộng dâu, có một quan huyện (hay lý trưởng
gì dó) buông lời chọc ghẹo, sàm sỡ nắm lấy bàn tay. Bà cho như vậy là đã
thất tiết với nguời chồng khuất núi, bèn lấy dao mà chặt cánh tay bị ô
nhục kia. Hành động đó được mọi người xưng tụng là bậc tiết hạnh khả
phong (không rõ là có được vua ban tặng hay không?). Tiết phụ phải là
như vậy.
Câu chuyện bắt đầu của bài Tiết Phụ Ngâm
này là chàng đã biết rõ, và rất rõ là em đã có chồng rồi. Vậy mà vẫn
khăng khăng tặng cặp minh châu để làm quà. Nếu suy nghĩ cho thấu đáo
chuyện quà cáp cho nhau không hề đơn giản. Không phải ai, cũng rán tặng
cho được và cũng không phải ai cho, mình cũng nhận quà được. Phải tặng
đúng người và đúng lúc, phải biết rõ mục đích tặng quà là gì, cùng giá
trị của món quà quí tiện như thế nào. Chuyện giao tế rất tế nhị. Vậy mà ở
trường hợp nây em đã có chồng rồi mà khi chàng tặng quà lại nhận ngay
không một thắc mắc, do dự.
Ngay từ đầu, chúng ta đã thấy rõ hai người đã có
tình ý với nhau. Cái chữ “quân” và “thiếp” (chàng và thiếp hay anh và
em). Cách xưng hô đó chỉ dành cho vợ chồng và tình nhân, không hơn không
kém. Nếu là người xa lạ, người dưng thì không thể dùng hai chữ này. Nét
tình tứ đã lộ rõ trong cách xưng hô.
Vì đã có tình ý với nhau nên chuyện tặng quà quả
nhiên là hợp lý hợp tình. Chúng ta phải xét kỹ chỗ này. Tuy là có tình ý
nhưng là tình ý lén lút vì hoa đà có chủ, không thể công khai. Mọi
chuyện phải hiểu ngầm mà không cần phải nói ra. “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc / Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”
Món quà là gì đây. Một cái khăn thêu, một chiếc
quạt đề thơ một cây bút lông thỏ hay một cặp sách như ta thường bắt gặp
trong tiểu thuyết Trung Hoa? Tất cả đều không phải. Món quà này cực kỳ
đáng giá, bất cứ ai thoáng nghe đều hết hồn. Đó là một cặp ngọc minh
châu. Xã hội Tàu vào thời đại nhà Đường chỉ có giới quí tộc mới có khả
năng chơi ngọc. Đám bình dân tầm thường cơm không có mà ăn, áo không có
mà mặc, làm gì có được mấy thứ châu ngọc đó mà mơ ước. Như vậy chàng ở
đây thuộc giới quí tộc hoặc là doanh thương giàu có. Xét thêm điểm nữa,
nếu là minh châu để tặng người đẹp thì tặng một viên là sang trọng, quí
phái lắm rồi, tặng chi tới những hai viên! Anh chàng này thương yêu
người ngọc đến độ vung tay không tiếc của, hào hoa phong nhã rất mực. Rõ
ràng chàng muốn đạt được mục tiêu nên bất chấp giá nào, không thể thất
bại được. Thấp thoáng cạnh món quà vừa có ân tình, vừa có lợi dụng riêng
tư. Hình như bên trong có thêm giá cả mua bán nũa. Và cuộc tấn công ồ
ạt bằng sức mạnh kim tiền đã thắng. Người đẹp đã đưa tay ra mà nhận.
Bước đầu thoạt thấy chàng đã thành công. Người nào cũng vui!
Nhận ngọc rồi cất vào đâu đây cho ổn, chuyện này
không thể người ngoài biết được. Làm sao che giấu chuyện tai vách mạch
rừng. Viết tới đây tôi thiệt tình thán phục thi sĩ Trương Tịch. Thiệt
tình là phục sát đất ở từng chữ từng câu: “Cảm quân triền miên ý, Hệ tại hồng la nhu”. Khi
nhận quà của người yêu xong thì nàng suy tính việc cất giữ vào đâu? Món
quà này không tầm thường, vừa là vật quí hiếm, vừa là ân tình thương
yêu. Chỉ có thể cất vào một nơi kín đáo riêng tư, không ai biết, không
ai hay. Chỗ lý tưởng nhất là trong chiếc áo lót mình bằng lụa màu hồng
thơm tho, gần gũi, ấm áp. Như vậy là đôi viên ngọc thương yêu được nằm
ngay trái tim ép sát lồng ngực. Ôi chao, còn chỗ nào tình tứ và kín đáo
hơn nữa được.
Trong khi đó thì anh chồng tội nghiệp, đáng
thương kia có hay biết gì đâu, suốt ngày cầm kích đứng gác cho ông vua
ngủ ngon, quên mất cô vợ xinh đẹp, xuân sắc ở nhà trống vắng, quạnh hiu,
cô độc một mình. Quên luôn anh hàng xóm lực lưỡng, đẹp trai, giàu có,
phong lưu thập thò sưốt ngày bên cạnh. Tuy vậy câu chuyện tới đây bỗng
nhiên đột biến. Tới cái giây phút nàng sắp sa ngã đó thì lương tri chợt
tỉnh táo kêu gọi, không thể được, không thể được, mình là gái đã có
chồng, hoa đà có chủ và sực nhớ lại lời thề xưa. Không thể vì giàu sang
mà phụ bạc tình chồng nghĩa vợ, đã sống với nhau bao nhiêu năm đầu gối
tay ấp, thương yêu chưa đủ đầy, nếu không có tình thì cũng còn có cái
nghĩa. “Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi / Lương nhân chấp kích Minh Quang lý”
–đứng trên lầu cao chợt nhìn thấy chồng cầm kích đứng gác bên điện
Quang Minh, cô nàng chỉ trong một phút sực tỉnh cơn mơ mà quyết định trả
ngọc.
Chuyện trả ngọc tưởng là đơn giản nhưng thiệt ra
không hề đơn giản chút nào. Trả ngọc tức là dứt khoát từ chối mối tình
chàng đã trao. Làm sao mà nỡ. Trong cuộc đời này gặp gỡ biết bao người,
chỉ có chàng là người hết lòng hết dạ để tâm thương yêu mình, ngàn vàng
dễ kiếm, tri kỷ khó tìm. Người ngoài làm sao cảm nhận được nỗi đau
thương. Phải là người trong cuộc mới biết, lòng nào mà đành đoạn, yêu
nhau mà phải xa lòng đau như đứt từng đoạn ruột. Gặp nhau đã khó xa nhau
lại càng khó hơn.
“Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt / Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử” (Như gương, vâng biết lòng chàng / Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề xưa)
Có bắt đầu thì ắt phải có lúc kết thúc. Làm sao mà nói, làm sao mà vui được. Phút chia tay sao mà buồn bã thê lương. “Hoàn quân minh châu song lệ thùy”,
trả ngọc cho chàng trong hai hàng nước mắt. Tiếc ngọc hay tiếc người
tình? Tiếc người tình hay tiếc ngọc? Dù như thế nào thì cũng giống nhau
một chữ tiếc. Đức Phật từng đã có lần nói thương nhau mà phải xa là khổ,
ghét nhau mà phải gần là khổ (ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ). Sao mà
cái gì cũng khổ hết trơn. Ngậm ngùi mà bịn rịn, nắm níu mà xa, miệng
thốt lên lời oán trách số phận nghiệt ngã.
Cuối cùng thì thời gian lại bị đem ra mà đổ thừa.
Cái câu “phải chi hồi đó” một lần nữa được lặp lại trong tiếc nuối
những gì đời không thực hiện được. “Hận bất tương phùng vị giá thì” – hận là không gặp chàng khi chưa có chồng. Chữ “hận” ở đây gần với nghĩa ân hận, tiếc nuối, chớ không gần với nghĩa hờn giận.
“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không,
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra”
Như vậy toàn bài thơ là diễn tả cuộc xung đột
giữa bản năng tình dục và đức hạnh của người đàn bà có chồng với những
khuôn phép xã hội quy định. Nàng đã có giây phút yếu lòng, bồng bột yêu
thương. Con tim mù quáng theo sự dẫn dắt của bản năng mê say cái đẹp
giàu sang danh vọng và lý trí đã can thiệp kịp thời vào phút chót. Cuộc
dằng co giữa tốt xấu, thiện ác, bản năng dục vọng và phẩm hạnh khá gay
go…
Có bạn đọc trách cứ nàng đã phản bội người chồng,
tuy chưa sa ngã nhưng đã có ngoại tình trong tư tưởng. Tôi không trách
như vậy và cực kỳ thương xót cho nàng, ai ai cũng có những giây phút yếu
lòng… Ông trời sanh con người có trái tim tuy lớn nhỏ khác nhau. Nếu có
trách thì trách trái tim tại sao lại rung động nhịp nhàng trước cái
đẹp. Mà trái tim nào cũng đâu phải có một ngăn, nó có nhiều ngăn mà. Nó
đập theo nhịp của nó, mình không phải là nó thì làm sao hiểu được cái gì
mà nói này nói kia….
Trong nền văn học Trung Hoa mấy ngàn năm các tác
phẩm thơ văn hầu như tất cả đều vô khuôn phép mẫu mức của lễ giáo tiết
nghĩa. Hiếm khi bắt gặp những tác phẩm đề cao bản năng con người. Mà con
người thì trời sanh có ba đời sống: đời sống vật chất, đời sống tinh
thần và đời sống tình cảm gồm có tình dục. Tác phẩm bàn về bản năng tình
dục tuy cũng có nhưng rất hiếm hoi. Và nàng tiết phụ trong bài này đã
nói lên được cái ước muốn thầm kín của bản năng tình dục đó, tuy cưối
cùng cũng đầu hàng trước lễ giáo của xã hội.
Mà quả đúng như vậy, CON NGƯỜI là sản phẩm của xã hội mà.
Võ Kỳ Điền (Brossard. Quebec. 2018-11-26)
Tiết Phụ Ngâm
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Ngay từ hai chữ “tiết phụ” ở nhan đề tác giả muốn khoe ngay cái ý chánh của bài thơ, không mập mờ, xa xôi, tượng trưng, bóng bẩy gì ráo trọi. Tiết phụ là người đàn bà thủ tiết thờ chồng, theo quan niệm ngàn xưa đức Khổng Tử đặt ra. Tam tòng, tứ đức là khuôn vàng thước ngọc người phụ nữ phải biết gìữ mình cho trọn vẹn – Trai thời trung hiếu làm đầu / Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
29 thg 11, 2018
Thú ăn động vật sách đỏ ( Từ Bình Luận Án)
Thú ăn động vật sách đỏ
Hôm qua 26/11/2018, báo chí trong nước
đưa tin về vụ có một "tay chơi" là giám đốc một doanh nghiệp, khoe ảnh
đang giơ hai con chim quý và hô hào “Có ai nhậu không, thiếu tay”, trên
trang cá nhân của mình. Nhậu mồi là động vật sách đỏ có vẻ là một thú
vui của không hiếm đàn ông Việt Nam.
<< Đây là một chú mèo rừng ở bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), là một
trong những loài động vật quý hiếm thuộc danh mục nhóm IB, mức nguy cấp
trong sách đỏ Việt Nam. Không loại trừ khả năng có những gã đàn ông muốn
có cơ hội nhậu món mồi quý hiếm này (ảnh minh họa)Thực hư chuyện này thế nào, có phải là động vật sách đỏ hay không, sẽ bị xử lý ra sao... , tôi không quan tâm lắm mà cũng không muốn đào sâu. Mà chỉ là tôi bỗng liên tưởng đến thú vui ăn nhậu của giới đàn ông Việt Nam, trong đó có cả ... tôi!
Nói một cách ngắn gọn, là tôi thấy đàn ông Việt Nam giai đoạn đang xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay rất khoái nhậu nhẹt, say sưa. Gặp nhau, thay vì cùng uống trà, hay cà phê ... thì luôn có quan điểm cho rằng như vậy là sơ giao, nhẹ nhàng quá. Chưa được nhiệt tình, thể hiện sự quý mến nhau. Cho nên là phải nhậu.
Mà đã nhậu, thì thức uống tất nhiên phải là thứ có cồn như bia, rượu và càng đắt tiền càng quý. Đồ mồi cũng vậy, càng quý hiếm lạ lại càng quý, thể hiện được sự tôn trọng quý mến nhau. Hoặc ít ra cũng chứng minh mình những người rành ăn nhậu, biết chơi.
Thế nên, đồ mồi mà làm từ heo, bò, cá ... thường bị xem là quá thường. Chê.
Mà đồ mồi phải là đặc sản, lạ, và đặc biệt là càng hiếm, càng đắt tiền lại càng ... tốt(!?). Nói về tiền, thì nhiều ông về nhà keo kiệt với vợ, con từng đồng. Tỷ như con xin tiền vài chục ngàn đồng mua cuốn truyện thì hoặc không cho, hoặc bắt phải hứa hẹn chăm ngoan điểm tốt. Nhưng ra quán nhậu bạn bè bù khú, thì góp vào 500K, hay 1 triệu, 2 triệu là chuyện đơn giản (bằng cả tháng tiền mua sữa cho con). Tiền cứ nhẹ như lá đa.
Nói về mồi nhậu, thì món "lạ", món "đặc biệt" thường là đặc sản địa phương, hay thú rừng quý hiếm.
Tôi không phải là đại gia, cũng không làm quan, nên chưa có cơ hội dùng đồ mồi dạng cao cấp như tay gấu, não khỉ, ... nhưng xin thú nhận là cũng đã nhiều lần cùng bạn bè ăn hoặc được mời những món quý hiếm như: heo rừng, chồn hương, dúi, nai, nhím, ...vv
Nói chung là khi ăn thấy lạ, ngon, sướng! Nhưng cũng chỉ là cảm giác thoáng chốc thôi. Chứ không đến mức thèm khát, nhớ nhung gì.
Nhưng càng chững tuổi, tôi càng thấy mình có gì đó sai sai khi ăn những món mồi như vậy. Đó cũng là lý do tôi "cảm hứng" viết vài dòng chia sẻ chút kỷ niệm ở đây.
1. Có một lần, tôi được khách hàng mời nhậu món đồ mồi là con Dúi - một loài chuột núi sống hoang dã. Khi nhân viên nhà hàng hỏi làm thành mấy món, rồi giới thiệu "ngon lắm" ... vì tò mò nên tôi có đi ra phía sau, nói để xem con Dúi là con gì mà hồi giờ chưa biết. Nhân viên dẫn tôi ra phía sau nơi đặt chuồng nhốt thú. Tôi thấy cả một dãy cũi sắt chạy dọc tường, nhìn các con thú bị giam trong cũi, mắt nhòa nhoẹt ghèn, run bần bật như cầy sấy. Đặc biệt là một con thú giống như một con chó con hay chồn con chi đó, ánh mắt của nó nhìn tôi vừa như cầu cứu, lại vừa thù hận, phẫn uất khiến tôi bị ám ảnh mãi. Khi tôi đi vào nói với mọi người về cảm giác của mình, mọi người đều cười, nói tôi "yếu đuối". Nói đã ăn con gà con lợn, thì ăn con dúi cũng vậy thôi. Mà đã ăn thì đừng suy nghĩ dong dài chi cho thêm rắc rối.
2. Lại có lần vào quán thịt heo rừng ở Sài Gòn cùng nhóm bạn. Anh bạn tôi kêu một dĩa "heo rừng hấp hành". Lát sau nhân viên nhà hàng mang ra một đĩa thịt hấp. Anh bạn tôi nhìn, nói: "thịt này mà heo rừng cái gì? Mang vô đổi thịt heo rừng thật ra đây". Cậu trai nhân viên cười hề hề, mang dĩa thịt vô, lát sau mang ra một đĩa thịt khác. Anh bạn cầm đôi đũa gạt gạt kiểm tra rồi lại nạt lần nữa "vầy mà heo rừng! Vô nói ông chủ đem heo rừng thiệt ra đây. Bộ giỡn mặt hả". Cậu nhân viên cười nói: "vậy là mang thiệt heo rừng thiệt phải không?". Rồi lát sau lại mang ra một đĩa thịt mới (lần thứ ba). Lần này, anh bạn tôi kiểm tra cẩn thận, rồi gật gù "Ừ đây mới đúng là thịt heo rừng thiệt". Rồi chỉ cho tôi cách phân biệt: "heo rừng là phải có lông mọc theo từng chòm 3 sợi như vầy, như vầy".
3. Từ chuyện heo rừng trên, tôi lại nhớ ở ngay ở quê tôi (Bình Định) vài năm trước, báo đăng từng phát hiện vụ một cơ sở chuyên mua heo nái già về, cấy lông chòm 3 cộng, rồi dùng cây khò đốt da cháy xém, giả làm "heo rừng". Sản phẩm "heo rừng" này tiêu thụ khắp cả nước, mỗi ngày bán ra mấy tạ. Như vậy, tức là heo rừng giả nhiều ê hề trên thị trường. Suy cho cùng, cũng là để thỏa mãn cái thú nhậu "thú rừng" của mấy ông nhậu thôi.
4. Có lẽ chuyện gây tranh cãi khá nhiều vài năm gần đây là việc ăn thịt chó. Tôi cũng từng ăn thịt chó (từ hơn 10 năm trước, vài lần theo bè bạn rủ, chứ thực tình tôi không thích thú gì lắm món này). Tôi cũng từng ủng hộ quan điểm mỗi người có quyền tự do ăn uống, chọn món mình thích, miễn là không vi phạm pháp luật (viết bài đăng trên báo Thanh Niên). Nhưng sau này, tôi thấy chó là một loài động vật rất khôn ngoan và đặc biệt trung thành với chủ. Thực tế rất nhiều người nuôi chó làm thú cưng trong nhà, thân thiết yêu thương không khác nào một người bạn thật sự. Nên họ rất căm thù những kẻ trộm chó, ăn thịt chó. Thậm chí có thể giết chết những kẻ trộm chó! Nhiều vụ như vậy đã xảy ra. Nói chung, nay tôi ủng hộ quan điểm nên hạn chế, thậm chí là cấm ăn thịt chó.
5. Lại có một lần cách nay đã khá lâu rồi, tôi đi theo một đoàn công chức nhà nước ra tham quan một nơi là Vườn quốc gia. Ở đây có một số loài động vật được xếp vào sách đỏ, rất quý và hiếm. Anh giám đốc vườn quốc gia này (tôi xin không nêu tên cụ thể vì lý do tế nhị) có lẽ vì quý mến đoàn chúng tôi, nên đã sai lính bắt nguyên một ổ trứng của một loài động vật trong sách đỏ đem luộc... đãi khách! Khi ăn còn dặn chúng tôi là tuyệt đối không ai bỏ trứng này vào túi mang về. Vì nếu lỡ bị phát hiện có thể bị truy tố hình sự! Chúng tôi chỉ là một đoàn công chức quèn quèn mà còn được chiêu đãi như vậy, thì không lẽ quan chức to không được chiêu đãi món quý hiếm, và cũng là "hàng cấm" này hay sao?!
6. Việc các quan to, thậm chí rất to, ăn nhậu hay dùng/sử dụng sản phẩm từ những loài quý hiếm, thậm chí có trong sách đỏ - là sự thật đã và đang tồn tại ở Việt Nam từ lâu. Chỉ có điều là không ai dám nói, dám tố cáo. Mà có tố thì cũng không chắc ai dám xử lý, không khéo lại mang vạ vào thân.
Đọc trong sách báo, thấy trước đây vua chúa từng ăn cả thịt cọp, thịt voi, hay "nem công chả phượng"... Giờ thì có thể là sừng tê giác, cao hổ cốt, sâm nhung đặc biệt ...
Vì sao rất nhiều người thích ăn những món hiếm lạ như vậy? Tôi nghĩ không hẳn là vì món đó ngon hay bổ. Mà chính là do vì nó quá quý hiếm, đắt tiền, người thường không có cơ hội ăn, nên mình ăn, rồi khoe đã ăn, đã biết - để chứng tỏ với thiên hạ mình là giới "đẳng cấp". Tức là có yếu tố tâm lý, hay muốn khoe khoang mà thôi.
Đôi khi tôi tự hỏi, một người có "thành tích" ăn một con cọp hay một con tê giác, hay đại loại vậy - thì liệu có gì là hay ho tài giỏi hơn một người ăn uống bình thường? hay thậm chí là một người ăn chay? Hình như đâu có ai hơn ai chứ nhỉ? mà cũng chẳng có gì đáng khoe khoang.
Nói rộng ra, chuyện ăn thú rừng sách đỏ là một thú vui ăn uống có phần phàm tục của một số người. (Tôi không nói về chuyện vi phạm pháp luật). Nhưng thực ra đối với loài người nói chung, có một cái "thú" còn nguy hại hơn, là thú tham lam quyền lực. Mà có vẻ như nếu ai có cái thú này, thì thường sẽ bao trùm luôn cái thú ăn uống những của ngon vật lạ (như một tất yếu).
....
28 thg 11, 2018
Hoàng Nguyên Vũ - Đôi mắt chú mèo con và đứa bé bị cô giáo vẽ đen lên ký ức
(Cho những thầy cô giáo hay bạo hành trẻ
em)
Chúng ta lớn, đủ bao dung để tha thứ cho
những ai làm đau mình, nhưng quên thì chắc chắn sẽ không quên được...
Một buổi trưa miền Trung nắng như đổ
lửa, có một cậu bé mang một chú mèo con màu vàng đến tặng cô giáo. Lúc đó, cậu
bé đang trong kỳ nghỉ hè của lớp 3. Trước đó, khi chia tay lớp, cậu bé có nói
với cô giáo: "Thưa cô, mẹ con nói khi nào mèo con ăn được và cứng cáp
sẽ tặng cô một con vì lần trước cuốn sổ điểm của cô bị chuột xé nát".
Cô giáo cầm con mèo, chỉ hỏi cậu bé một
câu: "Mẹ con thế nào rồi?". "Dạ, bố bảo mẹ cũng có thể sống
được rồi ạ". Cậu bé trao con mèo cho cô rồi đi về. Con mèo nhìn nó,
ngơ ngác như chính nó đã từng ngơ ngác những tháng ngày trước đó với những gì
cô giáo hành xử với nó. Nó vẫn mặc chiếc áo ấm đã xé đi lớp bông của chị nó để
lại, để làm áo mặc mùa hè, cái quần dệt kim loang lổ bụi bẩn, đi giữa cái gió
lào miền Trung rất gắt...
Thực ra nhà nó với nhà cô giáo cách nhau
tầm mấy trăm mét. Khi nó lên lớp 3, mẹ nó muốn nó là học trò của cô giáo, đơn
giản vì nhà gần. Ở nông thôn mà, lũ trẻ thường chọn cô gần để học. Hồi đó, nó
học giỏi nổi tiếng vùng đó. Hầu hết là các môn tự nhiên. Riêng môn văn, nó dùng
tư duy thực tế nên văn chương không bay bổng gì. Các bài văn tả hay dùng phép
so sánh hơi thô kệch. Đến khi làm học trò của cô giáo hàng xóm này, nó luôn
luôn bị miệt thị bởi những bài văn hay đem những thứ quanh nhà ra so sánh khi
tả một cái gì đó trong đề văn.
Nó cũng chẳng hiểu tại sao cô giáo lại
ghét nó như vậy. Khi xếp hàng vào lớp, nó lỡ đứng cong một chút, cô phang thẳng
cái thước to thay vì đánh khẽ như các bạn khác. Bài tập vẽ của nó vẽ như các
bạn, nó 5 điểm còn các bạn toàn 8. Toán thì chắc cô khó chấm khác. Chính tả
cũng vậy. Chỉ môn văn là cứ ăn điểm 5 thường xuyên.
Hễ nó đi chậm là cô cho đứng ngoài cho
đến giờ ra chơi, cậu bé ngồi tựa cái tường gạch cũ, cô dạy đến đâu chép đến
đấy. Có lần thầy hiệu trưởng đi qua, gọi cô giáo ra quát một trận, cô mới cho
vào và hình như từ đó cô cũng thù nó hơn. Nó mang thau nước trực nhật, cô
thường chê sao nước bẩn và có thể phạt nó bằng roi vọt.
Dĩ nhiên, nó không hiểu.
Bộ quần áo nó mặc cô luôn đưa ra miệt
thị trước lớp, ăn bẩn ở dơ và lôi cả cha mẹ nó ra nói, không lẽ nghèo đến mức
không sắm nổi cho con cái bộ áo quần...
Riêng cái này thì nó hiểu. Đúng, thời
điểm đó nhà nó nghèo đến mức đó đấy.
Trước đó, nhà nó không hề nghèo. Bố nó
làm thợ mộc cừ tay, nhà gỗ cũng lớn nhất nhì làng. Ông đẽo cày giỏi nhất xứ đó,
khách hàng nườm nượp. Rồi một ngày, nó cùng lũ trẻ nghịch hay ném vào vách phên
nhà bác họ, tên Lập. Một tháng sau bác họ tuyên bố: "Được, ném thì tao
cho ném luôn", bác huy động anh em nhà bác trên dưới, đêm nào cũng như
đêm nào, ném tan tác cả hai cái nhà nó trong suốt 6 tháng trời. Đến mức giường
ngủ bố nó phải lót ván phía trên đề phòng gạch ngói vỡ rơi trúng mặt. Bố nó uất
ức không làm gì được trong 6 tháng, mẹ nó phát bệnh. Bố nó đêm nào cũng vác dao
đi rình kẻ ném nhà, may thay bố nó không tóm được ai, nếu không, nó sẽ có một
người cha đi tù về tội giết người.
Chuyện ném nhà được kết thúc khi mẹ nó
bệnh quá nặng, không đi viện thì chỉ có nước chết. Và, nó ngơ ngác khóc nhìn mẹ
bất tỉnh được đưa đi, ấy là khi kỳ nghỉ hè đã đến.
Cho đến bây giờ, nó cũng không hiểu tại
sao mỗi ngày nó đến lớp, cô giáo cứ nghĩ ra một hình phạt gì đó dành cho nó.
Sau này lớn lên nó hỏi mẹ với cô có hiềm khích gì không, mẹ bảo là không. Nó
chỉ biết rằng vào năm lớp 3, nỗi ám ảnh lớn nhất của nó là cô giáo. Cô giáo tên
Hồng Sửu.
Khi mẹ nó đi viện, bố nó dặn nó một câu,
con muốn thoát khỏi cảnh này thì phải học thôi. Nhà mình ông nội là thầy đồ, cố
nội là quan, cụ tổ là ông Nguyễn Văn Giai, nghe đâu được đặt tên đường trong
Nam...và cứ thế, nó học, bắt đầu từ môn văn. Và cũng chỉ một năm sau, nó trở
thành học sinh giỏi môn văn, vào trường năng khiếu, tạm biệt cái trường làng
nhỏ bé với những kỷ niệm buồn năm nó mười tuổi. Ký ức với nó chỉ thoáng qua
chút nhớ như chú mèo con xa mẹ và lăn vào một gia đình khác để sống.
Sau này gặp lại cô giáo, nó vẫn chào
hỏi. Nó lớn lên, nó tạm lý giải vấn đề rằng có chút gì bất ổn về cô khi nghĩ về
gia đình nó. Rồi nó tha thứ. Nhưng, làm sao nó quên được?
Biết bao nhiêu thầy cô đã dạy nó, đã yêu
thương, đã nhớ nó. Nhưng có một người thầy, mãi mãi vẫn ăn sâu trong trí nhớ nó
về những đòn roi và miệt thị, đã vẽ vào đời nó những nét vẽ đen lên một tờ giấy
trắng 30 năm trước...
Dù đời vẽ vôi vẽ phấn vẽ bụi lên điều
đó, nhưng, cái màu đen năm xưa, nó vẫn hằn sâu lắm. Tính cho đến lúc nó ngồi
viết những dòng này đây, thưa cô...
HOÀNG NGUYÊN VŨ 27.11.2018
(Từ Blog Thuy My)
Xem Thêm :Sao đỏ - "hồng vệ binh", nỗi ám ảnh của học trò
Về Bài CỬU TỬ PHA VĂN GIÁ CÔ của Lý Quần Ngọc ( NGHE BÌM BỊP KÊU
Người xưa, trên những bước lưu đầy, cám cảnh tha hương, đường về sông ngăn núi cách, một chiều thu đất khách, còn nghe được tiếng chim chá cô hót để nhớ về nhà. Tôi nay, cuối đời xa xứ, lang thang vô định, ngay cả đến nỗi nhớ, cũng không biết gửi về đâu? Nhân ngày lễ Tạ Ơn xứ người, đôi lời vụng từ ý xưa, mong được chia sẻ phần nào, để cho bớt buồn thôi. Cầu chúc an lành. PKT 11/22/2018
Cửu Tử Pha Văn Chá Cô
Lý Quần Ngọc (-847-)
Lạc nhật thương mang thu thảo minh
Chá cô đề xứ viễn nhân hành
Chính xuyên cật khúc khi khu lộ
Cánh thính câu châu cách trách thanh
Tằng bạc Quế Giang thâm ngạn vũ
Diệc ư Mai Lĩnh trở quy trình
Thử thời vị nhĩ trường thiên đoạn
Khất phóng kim tiêu bạch phát sinh
Nghe Tiếng Chim Chá Cô Hót Ở Lưng Đèo Cửu Tử
PKT - Mây Tần - Chim Hót Lưng Đèo
Bát ngát cỏ thu một góc trời,
Chá Cô xáo xác rộn chiều rơi.
Gập ghềnh dốc núi chồn chân khách,
Lách cách càng xe não dạ người.
Sông Quế thuyền neo mưa cản ngược,
Núi Mai lối chắn nẻo về xuôi,
Chim ơi tiếng hót tha hương ấy,
Cho khất đêm nay tóc bạc rồi.
Tri Khac Pham
Bài Của Đỗ Chiêu Đức
九子坡聞鷓鴣 Cửu Tử Pha Văn Giá Cô
落照蒼茫秋草明, Lạc chiếu thương mang thu thảo minh,
鷓鴣啼處遠人行。 Giá cô đề xứ viễn nhân hành.
正穿詰曲崎嶇路, Chính xuyên cật khúc khi khu lộ,
更聽鉤輈格磔聲。 Cánh thính câu chu cách trách thanh
曾泊桂江深岸雨, Tằng bạc Quế giang thâm ngạn vũ,
亦于梅嶺阻歸程。 Diệc vu Mai lĩnh trở quy trình.
此時為爾腸千斷, Thử thời vị nhĩ trường thiên đoạn,
乞放今宵白發生。 Khất phóng kim tiêu bạch phát sinh.
李群玉
*Chú Thích :
- Giá Cô : Một loại chim trong rừng núi, kêu theo con nước; giống như là chim Bìm Bịp của ta vậy.
- Cật Khúc : là Quanh co. Cật Khúc Khi Khu 詰曲崎嶇 là Quanh co gập ghềnh, chỉ đường núi lồi lõm quanh quẹo khó đi.
- Câu là Cái Móc; Chu là cái thùng xe; nên Câu Chu Cách Trách 鉤輈格磔 là Tiếng khua cọc cạch giữa cái khoen móc của thùng xe và càng xe khi đi trên đường núi đá gập ghềnh.
- Tằng : là Đã từng; Bạc : là Đậu thuyền lại.
- Diệc : là Cũng; Vu : là ở chỗ.
- Vị Nhĩ : là Vì mi, là Tại mầy.
- Khất : là Xin; Phóng : là Buông; Khất Phóng 乞放 : là
Xin hãy buông tha.
* Dịch Nghĩa :
Nghe Bìm Bịp Kêu Trên Đèo Cửu Tử
Ánh nắng chiều vàng vọt trải xuống làm cho đám cỏ thu sáng rực lên. Tiếng chim bìm bịp kêu làm xúc động tâm tình người đi xa như ta đây, trong lúc xe đang ngã nghiêng trên đường núi quanh co gập ghềnh và tiếng cọc cạch ken két không ngớt vang lên dưới càng và thùng xe. Ta nhớ lại, đã từng đậu thuyền ở bến Quế giang này trong một chiều mưa lớn và cũng ở chỗ Mai Lĩnh nầy đã làm cản trở bước chân ta. Giờ đây, ta cũng vì nghe tiếng kêu của mi mà đứt ngàn khúc ruột, xin hãy tha cho ta đêm nay đừng để sáng ngày tóc ta lại phải bạc thêm nữa !
* Diễn Nôm :
Nắng chiều nghiêng đổ cỏ thu xanh,
Bìm bịp kêu thương viễn khách hành.
Khúc khuỷu gập ghềnh đường núi lõm,
Lọc cà lọc cọc tiếng xe phanh.
Đã từng bến Quế nghe mưa đổ,
Lại nữa đĩnh Mai cản lộ trình.
Giờ lại nghe mi buồn đứt ruột,
Tha cho tóc bạc suốt thâu canh !
Lục bát :
Nắng chiều nhuộm cỏ thu vàng,
Tiếng bìm bịp vọng bàng hoàng khách xa.
gập ghềnh đường núi la đà,
Tiếng xe kẻo kẹt kẻo cà nhớ xưa.
Đậu thuyền sông Quế nghe mưa,
Đĩnh mai cản bước như vừa mới qua.
Nghe chim ruột đứt xót xa,
Bạc đầu xin hãy tha ta đêm này !
Bìm Bịp Kêu Trên Đèo
Nắng nhạt, thu vàng, cỏ mướt xanh
Tiếng bìm bịp vọng khách du hành
Đường nghiêng khúc khủyu quanh co thắng
Xe lắc rung càng lọc cọc phanh
Mai Lĩnh chân trơn từng chậm bước
Quế Giang mưa lớn phải đăng trình
"Mi" nghe phiền não buồn gan ruột (1)
Tóc bạc xin tha, thức trắng canh
Mai Xuân Thanh
Ngày 24/11/2018
(1) Mi : Bìm Bịp