| |||
Phạm Thanh Chương |
30 thg 6, 2014
Giấc mơ đời xa vắng - Pham thanh Chương
29 thg 6, 2014
Ước và Tiếc - Thơ Bích Hải
ƯỚC
Ước trời xanh mãi nắng hồng
Yêu thương lắng đọng giữa lòng thiết tha
Ước ngày xa cách chóng qua
Kề môi dựa má mặn mà tiếng yêu
Ước vòng tay giữ nắng chiều
Ôm ghì nỗi nhớ chắt chiu nửa đời
Ước mưa héo hắt ngừng rơi
Gió về bên ấy trao lời nhớ nhung
Ước đêm thâu giấc mơ cùng
Ru nhau ấm áp tình chung hương nồng
Ước kề bên thỏa ngóng trông
Mắt nhìn đắm đuối môi hồng ngất ngây
Ước tình chưa đượm đắm say
Lòng như biển lặng những ngày xa xưa
Nhớ thương biết mấy cho vừa
Ước chi hôm ấy đừng đưa em về
Ước trăm năm chữ hẹn thề
Sắt son sau trước phu thê kết nguyền
Bạc phai nhạt mái tóc huyền
Dấu yêu nung nấu còn nguyên thuở đầu
Ước đời thương hải bể dâu
Đá vàng vững dạ bền lâu cuộc tình
Thăng trầm kiếp số điêu linh
Tình yêu chỉ một ba sinh vẹn lời
Gió Biển 24-06-2014
Thu tiếc xuân qua lá úa vàng
Vắng vòng tay hạ để đông sang
Thắm thoát tháng năm dài cách biệt
Nửa đoạn đời tìm kiếm gian nan
Em tiếc ngày xanh ươm mộng mơ
Trong một lần bắt gặp tình cờ
Ánh mắt ý gì sao vẫn nhớ
Từ xa xưa anh có đợi chờ
Em tiếc hàng cây nắng sân trường
Áo trắng học trò mây vấn vương
Phượng đỏ cho mùa sang vội vã
Chia đời đôi ngã cách yêu thương
Em tiếc khung trời vòng tay anh
Từng phút từng giây trôi quá nhanh
Bờ môi bỏng cháy tình xao xuyến
Nồng nàn thắm thiết tợ xuân xanh
Em tiếc mùa trăng non chóng qua
Xuyên mành chiếu rọi cuộc tình ta
Em tiếc bờ vai nghiêng gối lã
Ru tình muôn thuở chửa phôi pha
Em tiếc tàn đêm những đoạn đường
Khung cửa phủ mờ lấm tấm sương
Tay gối êm nằm hương đêm lặng
Má dựa vai kề thêm luyến thương
Em tiếc nắng vàng trên dòng sông
Ru em anh hát khúc mơ mòng
Tiếc ngày tươi đẹp đang mùa hội
Ngây ngất tin yêu đọng giữa lòng
Em tiếc hoàng hôn đổ bóng chiều
Rời nhau nhung nhớ biết bao nhiêu
Mai đời xum hợp không chia cắt
Bên nhau bồi đắp một trời yêu
Gió Biển 22-05-2014
Cuồng vương nghiệp- Thơ Thuyên Huy
CUỒNG VƯƠNG NGHIỆP
1 . TỪ KHANH
Thôi còn gì nữa đâu khanh
Quân vương hai tiếng cũng đành biệt nhau
Nửa sơn hà đó đục ngầu
Nửa thần dân đó buốt đau một đời
Nhìn một lần một lần thôi
Nghiệp vương khanh hởi chôn vùi từ đây
2 . BIỆT VƯƠNG
Mượn gươm vàng tiễn một đời
Trả cung son đó cho loài u mê
Quân vương hởi chờ thiếp đi
Nửa đời con gái có gì tiếc thương
Máu hồng nhuộm khúc biệt vương
Làm thân cát bụi theo đường ruỗi dong
3 . CUỒNG VƯƠNG NGHIỆP
Quân vương hai tiếng quân vương
Ngựa xa lẩn khuất cuối đường ruỗi dong
Quân reo theo vó câu hồn
Nhìn giang sơn trẫm ngậm hờn thiên thu
Nhìn thần dân mắt ta mờ
Khóc ta hay khóc cờ đồ rã tan..
28 thg 6, 2014
Flying Over America : Mời xem video
Mời xem video nầy.
Coi như đi du lịch nước Mỷ bằng mắt
(st và chuyển:Ngọc Diễm)
Coi như đi du lịch nước Mỷ bằng mắt
(st và chuyển:Ngọc Diễm)
Hình xưa Trường Sư Phạm Thưc Hành
Đây là hình trường Sư phạm Thực hành trước 1975,do chị Thanh Tuyền,1 GV từng làm việc tai trường cung cấp.
Các bạn có nhìn ra ai không ?
Các bạn có nhìn ra ai không ?
Phát minh kỳ dị trong lịch sử nhân loại
Phát minh kỳ dị nhất lịch sử nhân loại
Thiết bị an toàn để ngăn ngừa và làm giảm chấn thương cho người đi bộ nếu không may bị tai nạn xe .
Phát minh này được công bố năm 1924.
Xe mô tô một bánh của M. Goventosa de Udine (Italy) xuất hiện trên thế giới vào năm 1931
Thiết kế “áo phao” làm từ lốp xe đạp dành cho những người thích bơi lội năm 1925 ở Đức.
Xe đẩy dùng để bảo vệ trẻ em trong trường hợp xảy ra những cuộc tấn công bằng khí gas.
Phát minh này xuất hiện trên thị trường vào năm 1938.
Chiếc xe đạp đa năng có thể chở cả một gia đình kèm theo một chiếc máy may để người phụ nữ
có thể làm việc trong lúc di chuyển.Phát minh đặc biệt này xuất hiện năm 1939
Thiết bị này dùng để giúp trẻ em học cách tập đi trong những ngày đầu chập chững biết đi.
Phát minh này xuất hiện vào năm 1939.
Khẩu súng kỳ lạ này có thể chụp được những tấm ảnh như ở bên phải trước khi đạn được bắn.
Được phát minh vào năm 1938.
Mặt trườm đá làm đẹp da của phụ nữ.
Năm 1931 phát minh ra chiếc tẩu đặc biệt có thể sử dụng khi trời mưa sẽ không làm tắt điếu thuốc.
Phát minh này dùng để bảo vệ dung nhan của phụ nữ khỏi những trận bão tuyết năm 1939.
Hình ảnh một chiếc xe địa hình được trang bị nhiều bánh xe
có thể vượt qua nhiều dạng địa hình gồ ghề năm 1931
Dù nằm trên giường nhưng mọi người vẫn có thể đánh đàn piano như bình thường.
Phát minh này xuất hiện vào năm 1935.
Người Pháp đã phát minh ra xe đạp đi trên cạn và cả trên mặt nước năm 1932.
Chiếc kính đặc biệt có thể giúp bạn đọc sách dễ dàng, thoải mái ngay cả trong tư thế nằm.
Phát minh này ra đời năm 1936.
Cùng một lúc, những người hút thuốc có thể tận hưởng cảm giác khoan khoái khi hút liền hai điếu thuốc.
Kim Quy st
26 thg 6, 2014
Thơ Thuyên Huy : Theo sóng đời lao xao
THEO
SÓNG ĐỜI LAO
XAO
Từ những
ngày mưa nhiều không
nắng
Một nửa dòng
sông một nửa buồn
Cầu xưa
gãy nhịp mênh
mông vắng
Còn ai
đó không cho nhớ nhung
Nghe
đâu đây khúc chinh phu tiễn
Réo rắt chùng dây bản nguyệt cầm
Mất nhau theo tháng ngày chinh chiến
Trong đời còn mấy buổi trăm
năm
Kiếm cung cũng làm thân tráng sĩ
Trống
chiêng ư đâu khúc quân hành
Gói đời
trong lưng chừng
trang sử
Ai công
hầu mà tướng với khanh
Bỗng chợt buông xuôi thành bại tướng
Về trông
lá úa phủ thành xưa
Hồn rã buồn bay đi trăm hướng
Lạnh sóng đời theo gió trở mùa
Buồn trốn sông xưa đò qua vội
Có ai
cho hẹn buổi bạc đầu
Trọn một kiếp người trong dong ruỗi
Cuối đời viên đá cuội lao xao...
Thuyên
Huy
(ảnh;Google)
24 thg 6, 2014
Kỳ dị :Những sinh vật lạ
Đại dương bao la luôn là “ngôi nhà lý tưởng” của các loại động vật kỳ lạ, hiện tại các nhà khoa học vẫn luôn không ngừng khám phá tìm ra những động vật này.
Một ngư dân người New Zealand đã bắt được một “con tôm” lạ, nó có vẩy, nhưng trong suốt như thạch, bên trong thân còn có một bộ phận tròn như quả bóng màu cam. Các chuyên gia giải thích rằng sinh vật này được gọi là Salps, là một động vật biển, chủ yếu ăn các sinh vật phù du. Sinh vật này trong suốt để ngụy trang bảo vệ mình khỏi những kẻ săn mồi nguy hiểm.
Một nhiếp ảnh gia đã tình cờ chụp được loài bọt biển này tại vùng biển Caribbean. Nó có đôi mắt nhô ra, miệng rộng, bề ngoài màu xanh. Sinh vật kỳ lạ cũng chủ yếu sinh sống nhờ ăn các sinh vật phù du.
Người dân địa phương ở bang Washington của Mỹ tìm thấy sinh vật hiếm ở ven biển biển, nó có hình dạng như một con sứa, có các xúc tu dài màu xanh lá cây và có thể thu nhỏ“chân tay”. Chuyên gia Mỹ cũng cho biết, lần đầu tiên phát hiện ra sinh vật biển kỳ lạ này, tạm thời họ cũng chưa biết nó có tên khoa học là gì.
Oarfish còn được gọi là cá mái chèo, vua của cá trích hoặc oarfish khổng lồ, loài cá này được phát hiện tại bờ biển phía Tây của Thụy Điển. Các chuyên gia hải dương cho biết, đây là con cá lớn nhất trong vòng 130 năm kể từ khi lần đầu tiên phát hiện loài cá này ở các nước Bắc Âu. Nó có chiều dài tới 12m.
Là một trong những loài động vật không xương sống lớn nhất thế giới, sống ở vùng biển sâu, chủ yếu ăn các loại cá nhỏ, loài mực ống khổng lồ chỉ nổi lên biển khi bị thương hoặc chết.
Vào hồi tháng 4 năm 2012, Andy Logan, 38 tuổi, đang đánh bắt cá ở biển, anh đã bắt được chú cá lạ nặng tới 111kg, dài khoảng 2m, chiều ngang khoảng 3,5m.
Vùng nước ở Bali ở Indonesia vốn nổi tiếng với những động vật hiếm. Loại sinh vật này họ nhà tôm, có thân màu xanh. Hai mắt lồi trông rất lạ thường.
Sâu Spaghetti còn gọi là giun phẳng và côn trùng sứa chích, sinh vật này được gọi là thế bởi vì nó có thể đưa các xúc tu ra bốn phía để bắt mồi.
Loài cá này được tìm thấy ở vùng biển Tây Đại Tây Dương. Cơ thể và đuôi của nó có màu đen, thân người có rất nhiều đốm nhỏ màu trắng. Sinh vật này thích sống một mình hoặc thành bầy nhỏ, chuyên ăn các động vật thân mềm như đông vật giáp xác.
Loài sinh vật này mỏng như tờ giấy. Tuy nhiên nó không hề dễ bị “bắt nạt”, khi nó bị tấn công, thì một chất kích thích từ bên trong của sinh vật này sẽ tiết ra làm tê liệt đối thủ.
Loài sinh vật này được đặt tên theo hình dạng của nó - “cá ngựa lùn”. Nó có màu sắc thân tươi, giúp cho nó có thể trú ẩn trong các tảng san hô. Cá ngựa lùn chủ yếu sinh sống ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Vì kích thước cực kỳ nhỏ bé của mình, bản năng ngụy trang cũng rất mạnh mẽ, các thợ lặn thường khó phát hiện sự hiện diện của nó.
Tháng 1 năm 2010, nhà sinh vật biển người Đài Loan đã phát hiện ra loài cua mới, nhìn bề ngoài nó giống như quả dâu tây.
Tháng 6 năm 2012, một ngư dân Canada bắt được một con tôm hùm màu xanh hiếm gặp, xác suất xuất hiện của con tôm này là 1/200 triệu. Theo một ngư dân 51 tuổi cho biết, tôi đã đánh bắt cá 33 năm nay, trung bình mỗi ngày bắt được khoảng 3000 con nhưng đây là lần đầu tiên tôi bắt gặp loại tôm hùm này.
Đây cũng là một loại thân mềm, nó có màu sắc tím. Sinh vật này sống ở độ sâu từ 1200 tới 1800, và có chiều dài từ 3 tới 25mm.
Có ngoại hình như một dây pháo, loài sinh vật này sống ở độ sâu 400 cho tới 3000m, chiều dài khoảng 40mm. Hiện tại các nhà khoa học cũng chưa biết sắp xếp loài động vật này vào chủng loại nào.
Loài sinh vật này chỉ có 2 xúc giác, nhìn mặt trước giống như một con vẹt, sống trong 300-5.000 mét của đại dương, các nhà khoa học đang nghiên cứu thói quen của loại động vật này.
(st và chuyển:H.Phi)
Một ngư dân người New Zealand đã bắt được một “con tôm” lạ, nó có vẩy, nhưng trong suốt như thạch, bên trong thân còn có một bộ phận tròn như quả bóng màu cam. Các chuyên gia giải thích rằng sinh vật này được gọi là Salps, là một động vật biển, chủ yếu ăn các sinh vật phù du. Sinh vật này trong suốt để ngụy trang bảo vệ mình khỏi những kẻ săn mồi nguy hiểm.
Một nhiếp ảnh gia đã tình cờ chụp được loài bọt biển này tại vùng biển Caribbean. Nó có đôi mắt nhô ra, miệng rộng, bề ngoài màu xanh. Sinh vật kỳ lạ cũng chủ yếu sinh sống nhờ ăn các sinh vật phù du.
Người dân địa phương ở bang Washington của Mỹ tìm thấy sinh vật hiếm ở ven biển biển, nó có hình dạng như một con sứa, có các xúc tu dài màu xanh lá cây và có thể thu nhỏ“chân tay”. Chuyên gia Mỹ cũng cho biết, lần đầu tiên phát hiện ra sinh vật biển kỳ lạ này, tạm thời họ cũng chưa biết nó có tên khoa học là gì.
Oarfish còn được gọi là cá mái chèo, vua của cá trích hoặc oarfish khổng lồ, loài cá này được phát hiện tại bờ biển phía Tây của Thụy Điển. Các chuyên gia hải dương cho biết, đây là con cá lớn nhất trong vòng 130 năm kể từ khi lần đầu tiên phát hiện loài cá này ở các nước Bắc Âu. Nó có chiều dài tới 12m.
Là một trong những loài động vật không xương sống lớn nhất thế giới, sống ở vùng biển sâu, chủ yếu ăn các loại cá nhỏ, loài mực ống khổng lồ chỉ nổi lên biển khi bị thương hoặc chết.
Vào hồi tháng 4 năm 2012, Andy Logan, 38 tuổi, đang đánh bắt cá ở biển, anh đã bắt được chú cá lạ nặng tới 111kg, dài khoảng 2m, chiều ngang khoảng 3,5m.
Vùng nước ở Bali ở Indonesia vốn nổi tiếng với những động vật hiếm. Loại sinh vật này họ nhà tôm, có thân màu xanh. Hai mắt lồi trông rất lạ thường.
Sâu Spaghetti còn gọi là giun phẳng và côn trùng sứa chích, sinh vật này được gọi là thế bởi vì nó có thể đưa các xúc tu ra bốn phía để bắt mồi.
Loài cá này được tìm thấy ở vùng biển Tây Đại Tây Dương. Cơ thể và đuôi của nó có màu đen, thân người có rất nhiều đốm nhỏ màu trắng. Sinh vật này thích sống một mình hoặc thành bầy nhỏ, chuyên ăn các động vật thân mềm như đông vật giáp xác.
Loài sinh vật này mỏng như tờ giấy. Tuy nhiên nó không hề dễ bị “bắt nạt”, khi nó bị tấn công, thì một chất kích thích từ bên trong của sinh vật này sẽ tiết ra làm tê liệt đối thủ.
Loài sinh vật này được đặt tên theo hình dạng của nó - “cá ngựa lùn”. Nó có màu sắc thân tươi, giúp cho nó có thể trú ẩn trong các tảng san hô. Cá ngựa lùn chủ yếu sinh sống ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Vì kích thước cực kỳ nhỏ bé của mình, bản năng ngụy trang cũng rất mạnh mẽ, các thợ lặn thường khó phát hiện sự hiện diện của nó.
Tháng 1 năm 2010, nhà sinh vật biển người Đài Loan đã phát hiện ra loài cua mới, nhìn bề ngoài nó giống như quả dâu tây.
Tháng 6 năm 2012, một ngư dân Canada bắt được một con tôm hùm màu xanh hiếm gặp, xác suất xuất hiện của con tôm này là 1/200 triệu. Theo một ngư dân 51 tuổi cho biết, tôi đã đánh bắt cá 33 năm nay, trung bình mỗi ngày bắt được khoảng 3000 con nhưng đây là lần đầu tiên tôi bắt gặp loại tôm hùm này.
Đây cũng là một loại thân mềm, nó có màu sắc tím. Sinh vật này sống ở độ sâu từ 1200 tới 1800, và có chiều dài từ 3 tới 25mm.
Có ngoại hình như một dây pháo, loài sinh vật này sống ở độ sâu 400 cho tới 3000m, chiều dài khoảng 40mm. Hiện tại các nhà khoa học cũng chưa biết sắp xếp loài động vật này vào chủng loại nào.
Loài sinh vật này chỉ có 2 xúc giác, nhìn mặt trước giống như một con vẹt, sống trong 300-5.000 mét của đại dương, các nhà khoa học đang nghiên cứu thói quen của loại động vật này.
(st và chuyển:H.Phi)
NHẢY DÂY - Thơ CCN
NHẢY
DÂY
thơ Công Chúa Nhỏ
***
***
Trò
chơi nhảy dây lúc mười ba tuổi
Anh
với em hai đứa bắt một đôi
Tưởng
sẽ cùng đi khắp nẻo đời
Định
mệnh nhẩn tâm làm chân lạc nhịp…
*
Anh
cao nhảy nhanh, em không theo kịp
Vướng
dây hoài, vấp té, chân bị đau
Tay
anh xoa, lòng lo lắng nghẹn ngào
Em
thút thít nhưng tim vui rộn rã…
*
Bị
phạt, hai đứa quây… theo tay thả
Xếp
vòng dây, tay ta lại trong tay
Cận
kề nhau không biết tháng năm dài
Dây
mấy thước? sao gần bằng thế kỷ?
*
Chuyện
tuổi thơ ghi vào trong nhật ký
Mơ
ước ngày xưa chung bước đường đời
Xa
cách nghìn trùng, hai đứa đôi nơi
Vòng
xoáy tình trường xóa tan mộng ão …
3/6/
2014
( nhật
ký tuổi thơ)
Cam tac bai
Cam tac bai
Mười ba tuổi, nghĩ tới tương lai,
Để ý ai đây hạp mới tài...
Bắt nhịp đôi ta cùng nắm chắc,
Theo đà với bạn nhảy dây sai...
Người ta tốt bụng xoa chân té,
Nhỏ bạn vui đau háy nguýt dài...
Những tưởng mơ xa chung lối mộng,
Ai ngờ hụt hẫng giữa trần ai... !
Mai Xuân Thanh
28 June 2014
23 thg 6, 2014
Chuyện đò - Phan An
Thấy bài nầy trên mạng ,đem về đây cho anh chị em xem chơi...
Mình nghĩ nó không phải là chuyện con đò.Đó là những phận người khốn khổ, cơ cực từ đầu đến cuối cuộc đời mà nguồn hy vọng được khấm khá hơn 1 chút còn ở tận đâu đâu
Đọc xong nghe cay đắng trong lòng.
Rất cám ơn tác giã
Có điều, con đò ở quê tôi nó không hề lãng mạn như con đò
trong ca dao hay trong thơ Nguyễn Bính. Trong ca dao con đò nằm
dưới cây đa để trai gái lấp lửng chuyện đợi chờ hò
hẹn. Trong thơ Nguyễn Bính có anh lái đò mơ mộng lang thang tôi
dạm bán thuyền—có người trả chín quan tiền lại thôi. Con
đò quê tôi, nó chỉ là một cái thuyền vá víu hay nằm ghếch
mũi trên bờ sông cát trắng nắng như đổ lửa. Còn anh lái
đò, thì không có anh lái đò nào cả, chỉ có mỗi ông Hai
Nồi.
Ông Hai Nồi không biết thơ Nguyễn Bính, cũng không đọc ca dao.
Ổng mặc cái áo ka-ki bạc lưng, đội cái nón cời rách teng
beng, da ổng đen thui như lọ nghẹ. Nhưng ông Bốn Kiệt nói
"Họ kêu thằng Hai Nồi là thằng Hai Nồi không phải tại da
hắn đen, mà là tại hồi trẻ hắn ăn tham lắm, mỗi bữa hắn
ăn cơm tới hai nồi."
Bàn tay phải của ông Hai Nồi bị cụt đến bốn ngón, chỉ
còn ngón cái. Khi chèo, ổng phải kẹp cây dầm vào khuỷu tay.
Theo lời ổng kể thì ổng bị vậy là vì hồi chiến tranh ổng
đi lính bị dính mảnh đạn, phải đưa về bệnh viện thương
phế binh ở An Hải. Ổng nói bàn chân ổng bị tật cũng vào
lần ấy. Nhưng ông Bốn Kiệt nói "Thằng Hai Nồi hồi trẻ
hắn đói quá, nửa đêm chui vô vườn ăn cắp khoai lang, bị
dân họ bắt đánh cho dập tay chớ bom đạn cái chi chi." Khi
người ta quay qua hỏi ông Hai Nồi thì ổng trợn mắt lên, dí
tay vào mặt người ta mà quát "Ngó cho kĩ đi, cái sẹo trơn
lĩn như ri mà là bị đánh dập tay à?"
Làng ai cũng biết ông Hai Nồi, vì làng ai cũng đi đò qua sông
không nhiều thì ít. Ngày thường cũng như ngày Tết, ổng ở
ngoài sông từ sáng đến chiều. Buổi trưa vắng khách, ổng
ngồi đằng mũi đò, chân phải bắt qua chân trái, cắm mặt
xuống ăn cơm. Những khi có khách thì ổng đứng đằng lái,
người ổng khòm khòm, bàn chân trái ổng lệch hẳn sang một
bên, tạo với bàn chân phải một góc vuông. Trong sách viết
"Tiểu thuyền bất kham trọng tải," ổng nghe lỏm chữ
được chữ mất thành "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng." Khách của ổng thường là mấy bà đi chợ, trong khi
các bà bàn bô bô chuyện con gà mớ rau thì ổng hóng hớt mỗi
nơi một chút, lâu lâu lại chêm vào câu "Thuyền chở bất
khả kham chở khối lượng," rồi ổng giơ ngón cái bàn tay
phải lên, và ổng cười có vẻ rất đắc ý.
Nhà ông Hai Nồi chỉ có một mẩu ở cuối xóm. Vợ ổng ở
với ổng được chừng hai năm thì đi mất, để lại cho ổng
một đứa con trai là thằng Quốc. Thằng Quốc đầu óc tối
tăm, học hành thuộc hạng ngu đần vô phương cứu vãn. Năm
đầu nó học sau tôi một lớp, hai năm sau nó học sau tôi ba
lớp. Sáng sớm người ta hay thấy ông Hai Nồi dắt thằng con
tới trường, tay trái ổng cầm nắm cơm, khuỷu tay phải ổng
kẹp cái cặp, ổng cứ đi cà nhắc được khoảng chục bước
lại quay lại nói "Nhanh lên không trễ học con Quốc." Ổng
đưa thằng con vào đến tận chỗ ngồi, xong nói "Ráng học
cho giỏi nghe con Quốc." Chiều tối người ta hay thấy ổng
rượt thằng Quốc chạy lên chạy xuống trong xóm, tay ổng cầm
cái roi dâu vụt vun vút vào không khí, miệng ổng kêu "Chớ mi
ăn cái chi mà mi ngu rứa Quốc?" "Chớ mi giống ai trong nhà
mà mi học dốt rứa Quốc?" Năm đầu thằng Quốc vừa chạy
vừa khóc, hai năm sau thì nó vừa chạy vừa ngoái đầu lại
kêu "Cơm ông ba cho tui ăn chớ cơm chi" "Tui giống ông ba
chớ giống ai." Cảnh ấy gần như thành lệ, đến mức hôm
nào không thấy hai cha con chạy lên chạy xuống ông Bốn Kiệt
lại ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy thằng
Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni chủ
nhựt hè."
Năm tôi học lớp bốn, thằng Quốc đi tắm sông hụt chân
chết đuối. Xác nó trôi xuống mắc kẹt dưới chân bãi đá
Xuân Nam, khi vớt được lên thì đã trương phình. Ông Hai Nồi
chôn con bên bờ sông rồi bỏ chèo đò, làng phải cắt người
khác chèo thay. Được mấy tháng ổng chèo đò trở lại, nhưng
ổng không nói cái câu "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng" mà cũng không cười hềnh hệch nữa. Ổng cứ lẳng
lặng chống cây sào đẩy đò qua, rồi lại lẳng lặng chống
cây sào đẩy đò về, mặt ổng có vẻ ngẩn ngơ. Lúc trước
trời chưa chạng vạng ổng đã gác chèo về nhà cầm cây roi
dâu rượt thằng con chạy lên chạy xuống, bây giờ ổng ở
ngoài sông cho đến tận tối mịt. Ông Bốn Kiệt nói "Thằng
Hai Nồi hắn bị điên, nửa đêm tui ra sông hóng mát còn thấy
hắn ngồi thu lu trên đò."
Năm tôi học lớp năm, làng Phú Đa có người làm ăn thành
đạt từ thành phố về, bỏ tiền ra đúc một cây cầu bằng
xi măng bắc ngang sông. Cây cầu rộng phải đến sáu mét, nghe
nói là đủ cho ô tô tránh nhau, mặc dù cả hai bên làng chỉ
có tổng cộng đâu chừng ba chiếc xe đạp. Hôm khánh thành
cầu, dân làng đổ ra bờ sông đông nghẹt, pháo đốt đì
đùng, lại có cả một ông đứng giữa cầu đọc một bài thơ
trong có mấy câu đến giờ tôi vẫn còn nhớ:
<em>Cây cầu đúc nối hai bờ sông lại
Chiếc đò ngang giải thể nghiệp đón đưa.
Ông lái đò bước lên bờ gặt hái
Ruộng thấp gò cao định phận đuợc chưa?</em>
Ai nấy vỗ tay rào rào, rất hoan hỉ. Nhưng ông Hai Nồi không
có ruộng, ổng chỉ có một mẩu nhà ở cuối xóm. Cầu đúc
xong, không ai đi đò nữa, ổng chuyển sang nghề đánh cá, vẫn
ở ngoài sông từ sáng sớm đến tận khuya. Người trong làng ra
sông gánh nước vẫn thấy con đò ổng neo dưới chân cây cầu
đúc, gần chỗ nấm mồ thằng Quốc giờ cỏ đã mọc um tùm.
Nửa đêm trời nóng, ông Bốn Kiệt ra đứng trên cầu hóng mát
thấy ổng ngồi một mình trên đò, về nói "Thằng Hai Nồi
hắn bị điên."
Năm tôi học lớp sáu, làng bắt đầu đào đáy sông lấy cát
bán. Trước tiên thì chỉ có vài nhà, sau thì làng đi đào.
Người ta thuê cả xuồng máy để chở cho nhiều, lại thuê
thêm nhân công để đào cho nhanh. Từ sáng đến đêm, tiếng
xúc cát soàn soạt vọng từ ngoài sông vào đến tận cuối
làng. Nước sông thành ra đục ngầu, không uống được nữa,
làng chuyển sang uống nước giếng. Ông Hai Nồi nấn ná ít
lâu, rồi một bữa chống sào đẩy con thuyền vá víu bỏ làng
đi.
Chuyện chỉ có thế. Từ đó đến nay đã gần hai mươi năm,
vẫn không ai biết ổng đi đâu. Các bà đi chợ đã quên từ
lâu. Bọn con nít sinh ra sau này còn không biết ông Hai Nồi là
ai, mặc dù chúng nó chiều chiều vẫn ra bờ sông đá banh ở
bãi cát dưới chân cây cầu đúc. Chỉ có ông Bốn Kiệt bây
giờ đã già, tóc nửa bạc nửa rụng, tai điếc đặc, đầu
óc nghễnh ngãng, nửa đêm ra đứng trên cầu hóng mát thỉnh
thoảng vẫn ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy
thằng Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni
chủ nhựt hè."
Mình nghĩ nó không phải là chuyện con đò.Đó là những phận người khốn khổ, cơ cực từ đầu đến cuối cuộc đời mà nguồn hy vọng được khấm khá hơn 1 chút còn ở tận đâu đâu
Đọc xong nghe cay đắng trong lòng.
Rất cám ơn tác giã
Có điều, con đò ở quê tôi nó không hề lãng mạn như con đò
trong ca dao hay trong thơ Nguyễn Bính. Trong ca dao con đò nằm
dưới cây đa để trai gái lấp lửng chuyện đợi chờ hò
hẹn. Trong thơ Nguyễn Bính có anh lái đò mơ mộng lang thang tôi
dạm bán thuyền—có người trả chín quan tiền lại thôi. Con
đò quê tôi, nó chỉ là một cái thuyền vá víu hay nằm ghếch
mũi trên bờ sông cát trắng nắng như đổ lửa. Còn anh lái
đò, thì không có anh lái đò nào cả, chỉ có mỗi ông Hai
Nồi.
Ông Hai Nồi không biết thơ Nguyễn Bính, cũng không đọc ca dao.
Ổng mặc cái áo ka-ki bạc lưng, đội cái nón cời rách teng
beng, da ổng đen thui như lọ nghẹ. Nhưng ông Bốn Kiệt nói
"Họ kêu thằng Hai Nồi là thằng Hai Nồi không phải tại da
hắn đen, mà là tại hồi trẻ hắn ăn tham lắm, mỗi bữa hắn
ăn cơm tới hai nồi."
Bàn tay phải của ông Hai Nồi bị cụt đến bốn ngón, chỉ
còn ngón cái. Khi chèo, ổng phải kẹp cây dầm vào khuỷu tay.
Theo lời ổng kể thì ổng bị vậy là vì hồi chiến tranh ổng
đi lính bị dính mảnh đạn, phải đưa về bệnh viện thương
phế binh ở An Hải. Ổng nói bàn chân ổng bị tật cũng vào
lần ấy. Nhưng ông Bốn Kiệt nói "Thằng Hai Nồi hồi trẻ
hắn đói quá, nửa đêm chui vô vườn ăn cắp khoai lang, bị
dân họ bắt đánh cho dập tay chớ bom đạn cái chi chi." Khi
người ta quay qua hỏi ông Hai Nồi thì ổng trợn mắt lên, dí
tay vào mặt người ta mà quát "Ngó cho kĩ đi, cái sẹo trơn
lĩn như ri mà là bị đánh dập tay à?"
Làng ai cũng biết ông Hai Nồi, vì làng ai cũng đi đò qua sông
không nhiều thì ít. Ngày thường cũng như ngày Tết, ổng ở
ngoài sông từ sáng đến chiều. Buổi trưa vắng khách, ổng
ngồi đằng mũi đò, chân phải bắt qua chân trái, cắm mặt
xuống ăn cơm. Những khi có khách thì ổng đứng đằng lái,
người ổng khòm khòm, bàn chân trái ổng lệch hẳn sang một
bên, tạo với bàn chân phải một góc vuông. Trong sách viết
"Tiểu thuyền bất kham trọng tải," ổng nghe lỏm chữ
được chữ mất thành "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng." Khách của ổng thường là mấy bà đi chợ, trong khi
các bà bàn bô bô chuyện con gà mớ rau thì ổng hóng hớt mỗi
nơi một chút, lâu lâu lại chêm vào câu "Thuyền chở bất
khả kham chở khối lượng," rồi ổng giơ ngón cái bàn tay
phải lên, và ổng cười có vẻ rất đắc ý.
Nhà ông Hai Nồi chỉ có một mẩu ở cuối xóm. Vợ ổng ở
với ổng được chừng hai năm thì đi mất, để lại cho ổng
một đứa con trai là thằng Quốc. Thằng Quốc đầu óc tối
tăm, học hành thuộc hạng ngu đần vô phương cứu vãn. Năm
đầu nó học sau tôi một lớp, hai năm sau nó học sau tôi ba
lớp. Sáng sớm người ta hay thấy ông Hai Nồi dắt thằng con
tới trường, tay trái ổng cầm nắm cơm, khuỷu tay phải ổng
kẹp cái cặp, ổng cứ đi cà nhắc được khoảng chục bước
lại quay lại nói "Nhanh lên không trễ học con Quốc." Ổng
đưa thằng con vào đến tận chỗ ngồi, xong nói "Ráng học
cho giỏi nghe con Quốc." Chiều tối người ta hay thấy ổng
rượt thằng Quốc chạy lên chạy xuống trong xóm, tay ổng cầm
cái roi dâu vụt vun vút vào không khí, miệng ổng kêu "Chớ mi
ăn cái chi mà mi ngu rứa Quốc?" "Chớ mi giống ai trong nhà
mà mi học dốt rứa Quốc?" Năm đầu thằng Quốc vừa chạy
vừa khóc, hai năm sau thì nó vừa chạy vừa ngoái đầu lại
kêu "Cơm ông ba cho tui ăn chớ cơm chi" "Tui giống ông ba
chớ giống ai." Cảnh ấy gần như thành lệ, đến mức hôm
nào không thấy hai cha con chạy lên chạy xuống ông Bốn Kiệt
lại ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy thằng
Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni chủ
nhựt hè."
Năm tôi học lớp bốn, thằng Quốc đi tắm sông hụt chân
chết đuối. Xác nó trôi xuống mắc kẹt dưới chân bãi đá
Xuân Nam, khi vớt được lên thì đã trương phình. Ông Hai Nồi
chôn con bên bờ sông rồi bỏ chèo đò, làng phải cắt người
khác chèo thay. Được mấy tháng ổng chèo đò trở lại, nhưng
ổng không nói cái câu "Thuyền chở bất khả kham chở khối
lượng" mà cũng không cười hềnh hệch nữa. Ổng cứ lẳng
lặng chống cây sào đẩy đò qua, rồi lại lẳng lặng chống
cây sào đẩy đò về, mặt ổng có vẻ ngẩn ngơ. Lúc trước
trời chưa chạng vạng ổng đã gác chèo về nhà cầm cây roi
dâu rượt thằng con chạy lên chạy xuống, bây giờ ổng ở
ngoài sông cho đến tận tối mịt. Ông Bốn Kiệt nói "Thằng
Hai Nồi hắn bị điên, nửa đêm tui ra sông hóng mát còn thấy
hắn ngồi thu lu trên đò."
Năm tôi học lớp năm, làng Phú Đa có người làm ăn thành
đạt từ thành phố về, bỏ tiền ra đúc một cây cầu bằng
xi măng bắc ngang sông. Cây cầu rộng phải đến sáu mét, nghe
nói là đủ cho ô tô tránh nhau, mặc dù cả hai bên làng chỉ
có tổng cộng đâu chừng ba chiếc xe đạp. Hôm khánh thành
cầu, dân làng đổ ra bờ sông đông nghẹt, pháo đốt đì
đùng, lại có cả một ông đứng giữa cầu đọc một bài thơ
trong có mấy câu đến giờ tôi vẫn còn nhớ:
<em>Cây cầu đúc nối hai bờ sông lại
Chiếc đò ngang giải thể nghiệp đón đưa.
Ông lái đò bước lên bờ gặt hái
Ruộng thấp gò cao định phận đuợc chưa?</em>
Ai nấy vỗ tay rào rào, rất hoan hỉ. Nhưng ông Hai Nồi không
có ruộng, ổng chỉ có một mẩu nhà ở cuối xóm. Cầu đúc
xong, không ai đi đò nữa, ổng chuyển sang nghề đánh cá, vẫn
ở ngoài sông từ sáng sớm đến tận khuya. Người trong làng ra
sông gánh nước vẫn thấy con đò ổng neo dưới chân cây cầu
đúc, gần chỗ nấm mồ thằng Quốc giờ cỏ đã mọc um tùm.
Nửa đêm trời nóng, ông Bốn Kiệt ra đứng trên cầu hóng mát
thấy ổng ngồi một mình trên đò, về nói "Thằng Hai Nồi
hắn bị điên."
Năm tôi học lớp sáu, làng bắt đầu đào đáy sông lấy cát
bán. Trước tiên thì chỉ có vài nhà, sau thì làng đi đào.
Người ta thuê cả xuồng máy để chở cho nhiều, lại thuê
thêm nhân công để đào cho nhanh. Từ sáng đến đêm, tiếng
xúc cát soàn soạt vọng từ ngoài sông vào đến tận cuối
làng. Nước sông thành ra đục ngầu, không uống được nữa,
làng chuyển sang uống nước giếng. Ông Hai Nồi nấn ná ít
lâu, rồi một bữa chống sào đẩy con thuyền vá víu bỏ làng
đi.
Chuyện chỉ có thế. Từ đó đến nay đã gần hai mươi năm,
vẫn không ai biết ổng đi đâu. Các bà đi chợ đã quên từ
lâu. Bọn con nít sinh ra sau này còn không biết ông Hai Nồi là
ai, mặc dù chúng nó chiều chiều vẫn ra bờ sông đá banh ở
bãi cát dưới chân cây cầu đúc. Chỉ có ông Bốn Kiệt bây
giờ đã già, tóc nửa bạc nửa rụng, tai điếc đặc, đầu
óc nghễnh ngãng, nửa đêm ra đứng trên cầu hóng mát thỉnh
thoảng vẫn ngạc nhiên hỏi "Ủa chớ răng bữa ni không thấy
thằng Hai Nồi hè?" rồi tự trả lời "À quên mất bữa ni
chủ nhựt hè."
Những cái củ và xưa nhất Saigon
Ngôi trường cổ nhất
Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.
Nhà máy điện xưa nhất
Nhà máy điện Chợ Quán xây dựng năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW. Máy phát điện chính công suất 1000A/h. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.
Bệnh viện cổ nhất
Bệnh viện Chợ Quán xây dựng năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 giao cho Quân đội gọi là Viện bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn Việt có 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.
Nhà hát cổ nhất
Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu.
Khách sạn cổ nhất
Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, xây dựng năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam bị tụi Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental có diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế
Nhà thờ cổ nhất
Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 xây dựng từ năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ Quận 5.
Ngôi đình cổ nhất
Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, xây dựng vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp–sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
Nhà văn hóa cổ nhất
Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Spertif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao của quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ cơ ngơi này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để cải tạo xây dựng thành nơi tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2,8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn .
Công viên lâu đời nhất
Thảo Cầm Viên do người Pháp xây dựng năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi trồng những động thực vật vùng nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được cải tạo, mở rộng và nhập thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.
Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn -180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá Đa Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây dựng bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá Đa Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trỗ công phu hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Đá Ba Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống- bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch.
Ngôi chùa cổ nhất
Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP. HCM nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ.
Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đừơng sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, xây dựng năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đướng sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hoà Hưng. Trên nền Ga Sài Gòn cũ ngày 8/8/1998, khởi công xây dựng Trung Tâm Văn Hoá Thương Mại Sài Gòn.
Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hoá phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.
Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.
Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công nông thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tính dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nôi trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây dựng theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được xây dựng từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gôtic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây dựng này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.
Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây
Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, Latinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỉ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn - Gia Định theo phương pháp phương Tây.
Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.
Nhà máy điện xưa nhất
Nhà máy điện Chợ Quán xây dựng năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW. Máy phát điện chính công suất 1000A/h. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.
Bệnh viện cổ nhất
Bệnh viện Chợ Quán xây dựng năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 giao cho Quân đội gọi là Viện bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn Việt có 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.
Nhà hát cổ nhất
Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu.
Khách sạn cổ nhất
Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, xây dựng năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam bị tụi Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental có diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế
Nhà thờ cổ nhất
Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 xây dựng từ năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ Quận 5.
Ngôi đình cổ nhất
Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, xây dựng vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp–sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.
Nhà văn hóa cổ nhất
Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Spertif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao của quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ cơ ngơi này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để cải tạo xây dựng thành nơi tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2,8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của Sài Gòn .
Công viên lâu đời nhất
Thảo Cầm Viên do người Pháp xây dựng năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi trồng những động thực vật vùng nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được cải tạo, mở rộng và nhập thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương.
Ngôi nhà xưa nhất
Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn -180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá Đa Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây dựng bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá Đa Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trỗ công phu hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Đá Ba Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống- bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch.
Ngôi chùa cổ nhất
Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP. HCM nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ.
Đường sắt đầu tiên ở thành phố
Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đừơng sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, xây dựng năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đướng sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hoà Hưng. Trên nền Ga Sài Gòn cũ ngày 8/8/1998, khởi công xây dựng Trung Tâm Văn Hoá Thương Mại Sài Gòn.
Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp
Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hoá phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.
Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên
Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.
Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam
Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công nông thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tính dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nôi trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên
“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.
Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây dựng theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được xây dựng từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gôtic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây dựng này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.
Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây
Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, Latinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỉ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn - Gia Định theo phương pháp phương Tây.